Trâm Iii: Tình Lang Hờ

Nhớ đến Lý Thư Bạch, cô bèn rời khỏi phủ quận thú, đi về quán trọ.
Thành Đô địa thế thấp, bốn bề có núi bao quanh, quanh năm ít khi nhìn thấy mặt trời. Giờ đương mùa hạ, khí hậu có phần ngột ngạt ẩm ướt.Song Hoàng Tử Hà đã quen, còn cảm thấy ngọn gió thổi qua cũng thân thuộc vô cùng.
Cô thông thuộc đường ngang ngõ tắt ở Thành Đô như lòng bàn tay, qua bảy chỗ rẽ tám chỗ vòng là tới con ngõ có quán trọ. Về phòng thay đồ xong xuôi, cô lập tức sang phòng bên nghe ngóng xem Lý Thư Bạch ngủ hay thức. Nào ngờ vừa đến cửa, bên trong đã vang lên tiếng y: “Vào đi.”
Hoàng Tử Hà đẩy cửa bước vào bắt gặp Lý Thư Bạch đang ngồi bên cửa sổ uống trà. Thấy cô, y bèn ra hiệu cho cô ngồi xuống chiếc ghế trước mặt.
Hoàng Tử Hà thoáng ngập ngừng rồi cũng ngồi xuống, rót thêm trà vào chén cho y: “Gia có biết cái xác chúng tôi đến xem là ai không?”
Ánh mắt Lý Thư Bạch vẫn không rời những căn nhà ngoài cửa sổ, lạnh nhạt đáp: “Phó Tân Nguyễn trong Vân Thiều Lục Nữ hả?”
Hoàng Tử Hà phục sát đất: “Sao gia đoán được thế?”
“Phó Tân Nguyễn mới qua đời ở Thành Đô, cái chết rất đáng ngờ, lẽ nào Tử Tần không biết? Rõ ràng gã chưa lần ra manh mối, nên cậy ngươi đến giúp.”
Cô gật đầu: “Chuyện này rất đáng nghi. Các ngón bàn tay phải của Phó Tân Nguyễn có vết đen rất lạ, Tử Tần định bắt tay từ đó, tra xem chất độc này có vấn đề hay không.”
Y không đáp lời, chỉ trầm ngâm nhìn khung cảnh ngoài cửa sổ.
Hoàng Tử Hà cũng ngồi ngắm cảnh cùng y.
Ráng chiều xuyên qua tầng mây, phủ lên cảnh vật một tấm màn vàng nhàn nhạt. Trong thành nhà nào cũng có hoa thục quỳ, hoa phù dung rực rỡ khoe sắc, ngay cả bầu không khí vừa nóng vừa ẩm như cũng sáng lên.
“Phủ Thành Đô đẹp nhỉ?”
Đang trầm tư, cô bỗng nghe y nói, theo phản xạ bèn gật đầu ngay. Lý Thư Bạch thình lình đứng dậy: “Đi thôi, dẫn ta đi xem chỗ này.”
Hoàng Tử Hà ngạc nhiên hỏi: “Gia nghỉ ngơi thêm đã?”
Y lắc đầu: “Ta muốn đến nơi ngươi trước đây thường lui tới.”

Cô ồ lên, nghĩ ngợi một lát rồi hỏi: “Xem nơi... trước đây tôi thường lui tới ư?”
Lý Thư Bạch gật đầu: “Biết đâu...lại giúp ích được cho vụ án gia đình ngươi.”
Hoàng Tử Hà cảm thấy y chỉ viện cớ, xong cũng chẳng tiện gặng hỏi, bèn theo y ra ngoài, đi tới khu vực náo nhiệt nhất Thành Đô.
Trời đã ngả bóng, ánh hoàng hôn rọi chiếu khắp phố lớn ngõ nhỏ Thành Đô. Trên những con đường lát đá xanh, có tiệm đóng cửa, có tiệm thắp thêm đèn, ánh đèn hắt bóng xuống con đường phía trước, quanh co lặp lòe.
Theo luật bản triều, phủ Thành Đô cũng phải đặt giờ giới nghiêm. Nhưng từ sau loạn An Sử đến nay, luật lệ lỏng lẻo, ngay lệnh giới nghiêm ở kinh thành cũng chẳng lấy gì làm nghiêm ngặt, quanh chợ Đông chợ Tây Trường An thường xuyên có người đến đêm mới về, Thành Đô cách kinh thành rất xa, nên giới nghiêm chỉ gọi là cho có.
Hai người đi mãi, dọc đường ngang qua cả phường thêu và phường dệt gấm, gấm vóc vải thêu treo đầy đường, dưới ánh đèn càng thêm rực rỡ. Gấm vóc và đồ thêu đất Thục đứng đầu Đại Dường một thời, được người đời đua nhau ca tụng. Ánh mắt cô dừng trên hàng dãy túi hương thêu hoa văn cát tường ngũ sắc, thầm nghĩ mình cũng định thêu một cái túi đẹp như thế để người đó đeo vào thắt lưng, nhưng sau cùng vừa bận bịu lại vụng về, vẫn để trong hộp tủ ở nhà...
Giờ đây, chắc chiếc túi thêu hương dở ấy đã bị người chuyển vào sau này dọn dẹp vất đi rồi.
Phố đêm Thành Đô nhiều nhất là đồ ăn vặt.
Hoàng Tử Hà dùng tiền lấy được từ tên thích khách mua ít cánh và chân ngỗng nướng, nghĩ ngợi rồi đưa cánh cho Lý Thư Bạch: “Gia chắp cánh bay cao, nên phần gia chỗ cánh; còn tôi hai chân giẫm đất, nên ăn phần chân.”
Lý Thư Bạch cúi đầu nhìn cô, giữa dòng người huyên náo, ánh đèn lập lòe trên phố soi sáng cặp mắt cô, long lanh trong suốt.
Như sao sáng trên trời, như minh châu biển biếc, ánh sáng lung linh lần đầu tiên rọi vào cuộc đời ảm đạm của y.
Y chậm rãi nhận lấy hai chiếc cánh ngỗng, lại xé thêm một mảnh giấy dầu trong quầy, chia cho cô một cái, cũng lấy một cái chân từ tay cô.
Hoàng Tử Hà cầm phấn mới được chia, còn đang ngơ ngác thì nghe giọng Lý Thư Bạch khẽ khàng, tựa như từ rất xa truyền đến, văng vẳng vọng vào lòng cô, làm gợi lên muôn phần xao xuyến.
“Trên trời dưới đất, đều quá xa xôi.”
Cô đứng đó, bỗng thấy sóng lòng cuộn lên từng đợt, chẳng hiểu sao mình lại luống cuống, cũng chẳng biết phải làm thế nào mới đúng.
Lâu thật lâu, thấy Lý Thư Bạch đã đi tiếp, cô mới định thần đuổi theo sau, lặng lẽ ăn ngỗng nướng. Hàng đồ nướng này nổi tiếng nhất Thành Đô, ngoài giòn trong mềm, nướng vừa đủ độ, mùi thơm ngào ngạt, là một trong những quán ăn vặt cô ưa thích nhất ở đây.

Hoàng Tử Hà cắn thêm một miếng, lại lo không biết Lý Thư Bạch có nuốt trôi mấy món quà vặt ngoài đường thế này không, len lén nhìn lên thì bắt gặp y đang đứng giữa đám đông, ngoái đầu nhìn mình.
Cô len qua đám đông đến cạnh y, ngẩng đầu hỏi: “Gia thấy ngon không?”
Nhìn đôi môi đỏ mọng của cô, lại cúi đầu nhìn cánh và chân ngỗng trong tay mình, lần đầu tiên trong đời, ngay giữa phố, Lý Thư Bạch xé lớp giấy dầu, cắn một miếng nếm thử rồi gật đầu: “Không tệ.”
Ngắm gương mặt y sáng bừng lên dưới ánh đèn, Hoàng Tử Hà bỗng thấy hơi hồi hộp, rồi như để lấp liếm, cô vội chuyển chủ đề: “Chúng ta đang bị truy sát, liệu kẻ kia có hạ độc vào mấy thứ này không?”
“Không đâu.” Lý Thư Bạch thản nhiên đáp, “Kẻ địch chưa chắc đã biết thân phận chúng ta, sao có thể dùng biện pháp vừa hú họa vừa mạo hiểm thế này chứ?”
“Ừm, thà phóng hỏa đốt chỗ trọ của chúng ta có lẽ còn tiện hơn hạ độc ngoài phố.”
Lý Thư Bạch gật đầu, “Đúng vậy, bởi thế kể từ thời khắc bộc lộ thân phận, chúng ta phải hết sức thận trọng từng đường đi nước bước.”
Hoàng Tử Hà hiểu ý, bèn tiếp lời ngay: “Tiếp theo đây, những người chúng ta sẽ gặp, hay nói chính xác hơn là những người chúng ta sẽ gặp từ bây giờ cho tới lần bị phục kích tiếp theo, là rất quan trọng.”
Lý Thư Bạch gật đầu nhìn cô, không nói thêm gì nữa.
Hai người hòa vào dòng người hối hả xuôi ngược trên đường. Chẳng ai để ý tới họ, đương nhiên cũng chẳng ai chú ý, hai người đi giữa đám đông, lúc thì bị xô vai vào nhau, lúc thì bị gió thổi tung mái tóc quấn quýt vào nhau.
Cuối phố là một tiệm giấy mực. Trong tủ có giấy trắng, giấy vàng, giấy màu đủ loại, cả giấy hoa tiên rắc nhũ. Giấy dó Ích Châu được triều đình khâm định là giấy tiêu chuẩn, Lý Thư Bạch thường ngày cũng hay dùng, có điều loại bán trong dân gian dù sao cũng không bì được loại giấy tiến cống nên ý chỉ cầm lên xem rồi lại đặt xuống.
Hoàng Tử Hà mân mê một tờ giấy dó vàng trong tay, lại nhớ đến bức di bút của tiên hoàng cũng được vẽ trên giấy dó vàng đất Thục, song đến giờ ý nghĩa của ba hình vẽ vẫn chưa ai suy đoán được, càng không sao hiểu nổi nguyên nhân bên trong.
Lý Thư Bạch đương nhiên cũng đang nghĩ tới chuyện này, ngoái lại nhìn cô nói khẽ: “Phụ hoàng vẽ tranh xưa nay vẫn dùng giấy dó trắng. Giấy dó vàng... chỉ để viết chữ.”
Hoàng Tử Hà ngạc nhiên tròn mắt nhìn y.

Y chăm chú nhìn cô. Bên trong tiệm rất hẹp, hai người đứng quá gần, giọng y vang lên ngay bên tai, khiên cô cơ hồ cảm nhận được cả hơi thở y phả nhẹ vào dái tai mình, ánh hồng tức thì loang ra má. “Bởi thế, bây giờ là phụ hoàng viết chữ, chứ không phải vẽ tranh.. . càng không phải vẽ ra mấy thứ không biết là gì ấy.”
Giọng nói khẽ khàng, hơi thở vương vấn, khiến cô bỗng thấy căng thẳng cực độ. Xúc cảm khiến cô hồi hộp đỏ bừng mặt lại dâng lên trong lòng một lần nữa.
Hai người rời tiệm giấy mực thì đêm đã về khuya, lúc đi giữa con đường vắng tanh, Hoàng Tử Hà không nhịn được hỏi: “Gia... hẳn đã nghĩ đến việc này từ lâu?”
Y khẽ ừm một tiếng, cặp mắt sâu thăm thẳm dưới hàng mi hơi đảo qua cô.
Hoàng Tử Hà ngập ngừng: “Tại sao... giờ lại nói với tôi?”
“Vì bây giờ chúng ta khác rồi.”
Cô ngỡ ngàng ngẩng nhìn y.
Trăng vừa mọc, nền trời xanh thẫm, dưới vòm trời đêm, giữa ánh trăng vằng vặc, y chăm chú nhìn cô, không nói một lời, song lại khiến cô hiểu những điều y muốn nói.
Đúng thế, bây giờ đã khác.
Cô nhớ mình từng ôm chặt thân thể nóng giãy của y trong đêm, áp má vào gáy; từng rạch áo y, ấn lên làn da trần, giúp y băng bó; từng trông ý suốt đêm rồi mệt mỏi thiếp đi, đến tảng sáng mới mơ màng mở mắt ra, trông thấy đôi mắt trong suốt đang lặng lẽ ngắm mình.
Giống như y đang nhìn cô bây giờ vậy.
Giờ đây, y tiết lộ bí mật ấy cho cô, cũng tức là cuốn cô vào xoáy âm mưu trùng trùng cạnh mình. Từ nay, dù phá xong vụ huyết án gia đình, lấy lại thanh danh cho mình, cô cũng phải sánh vai y đi tiếp, không thể tách rời nữa.
Bởi vì, mọi chuyện đã khác rồi.
Y và cô, đã khác.
“Quỳ... Vương huynh! Dương tiểu đệ!”
Về đến cửa quán trọ, họ chợt nghe thấy một tiếng gọi hối hả vang lên, phá tan không khí im lặng giữa đôi bên nãy giờ.
Hoàng Tử Hà trông thấy Chu Tử Tần giơ cao một cái lọ nhỏ đang lật đật chạy lại, vẻ mặt vừa đắc ý, vừa cao hứng, vừa kinh hoàng, trông vô cùng quái dị.
Cô hỏi ngay: “Kiểm nghiệm nhanh thế ư?”

“Đúng thế, ta thật không ngờ...” Nói đến đây, gã bỗng đảo mắt nhìn quanh rồi úp mở kéo họ vào trong: “Chuyện này đúng là quái dị, mau mau, cho các vị xem cái này!”
Quen thói úp mở câu giờ, Chu Tử Tần đóng cửa sổ xong còn săm soi nhìn khắp các khe kẽ xung quanh một lượt, xác định không có ai nghe lén, mới đặt cái lọ lên bàn hạ giọng nói: “Các vị có biết đây là gì khong?”Hoàng Tử Hà cầm lên ngắm nghía, thấy bên trong chứa một thứ chất lỏng không màu, không mùi, nhìn hệt như nước, chẳng có gì lạ.
“Cẩn thận! Kịch độc đấy!” Chu Tử Tần vội nhắc.
“Gì cơ? Ở đâu ra đấy?”
“Đương nhiên từ mớ tóc kia rồi. Phó Tân Nguyễn uống thuốc độc vào là chết ngay, nhưng độc tính vẫn lan ra đến đầu tóc, ta chỉ đốt mấy sợi hòa tro vào nước, lọc qua một lượt là được lọ thuốc độc này.” Chu Tử Tần dương dương tự đắc chìa lọ thuốc ra cho hai người xem. “Nhưng phải cẩn thận đấy, ta nhúng đầu đũa vào đó rồi nhúng vào bể cá, thế là lũ cá trong bể chết cả.”
Hoàng Tử Hà bất giác sinh lòng thương xót lũ cá nhà họ Chu.
Lý Thư Bạch nhíu mày, cầm chiếc lọ săm soi hồi lâu, rồi trầm tư hỏi: “Trẩm độc à?”
“Đúng thế! Đúng là trẩm độc!” Chu Tử Tần đang phấn kích như điên, lại phải nén không thể reo ầm lên, nên rất ấm ức, “Chỉ cần chấm lông chim trẩm vào rượu là thành rượu độc.”
“Đấy là người ta đồn đại thế thôi.” Lý Thư Bạch hờ hững nói, “Trên đời làm gì có chim trẩm, chỉ là người chết vì trúng loại độc này, toàn thân đến cả thịt da lông tóc đều sẽ chứa chất độc, chim trúng độc chết thì đến lông vũ cũng có độc. Chỉ cần lấy tóc người hoặc lông chim trúng độc cũng đủ tái chế thành kịch độc, nên mới có truyền thuyết ấy.”
Chu Tử Tần lè lưỡi nhận xét: “May mà người đời không biết cách chế loại độc này, bằng không chẳng phải thiên hạ đại loạn rồi ư?”
Lý Thư Bạch gật đầu: “Trong cung vốn có loại độc này, từ triều trước để lại. Nghe nói nguyên liệu chủ yếu là tỳ sương, ngoài ra còn bỏ thêm phụ tử, đậu đỏ, cỏ đoạn trường, câu vẫn, mấy loại độc kiến huyết phong hầu vào luyện chế thành. Năm xưa sau khi Tùy Dạng Đế qua đời, Vũ Văn Hóa Cập thu được trong hành cung ở Dương Châu, truyền qua nhiều người, cuối cùng rơi vào tay Thái Tông hoàng đế. Thái Tông cho rằng loại độc này quá nguy hiểm, bèn hủy công thức đi, chỉ giữ lại một lọ nhỏ, đến nay gần như đã tuyệt tích rồi.”
“Không thể nào, chỉ cần sau khi hạ độc hại chết một người, rồi lấy da tóc người đó chế thành thuốc, chẳng phải lại có thuốc độc mới ư?”
Lý Thư Bạch lắc đầu: “Trẩm độc tuy lợi hại, nhưng độc tính cũng sẽ mất dần qua quá trình sử dụng. Thí dụ lượt dùng đầu tiên sau khi chế luyện thì chỉ chạm vào môi đã phát huy tác dụng, đừng hòng thoát chế. Nhưng sau khi lấy máu hoặc da tóc người trúng độc chế luyện thành thuốc độc loại hai thì thời gian phát tác sẽ chậm hơn, sau khi trúng độc có thể phải một hai canh giờ mới phát, một khi phát tác ắt chết ngay, thậm chí không kịp kêu cứu, hay phản ứng gì. Song độc được luyện chế từ người chết lần này, tuy vẫn là kịch độc, nhưng phát tác rất chậm, kẻ trúng độc phải bị giày vò đến mấy canh giờ, cũng không thể chế luyện ra thuốc độc nữa, chẳng khác gì những loại độc bình thường.”
Chu Tử Tần lại hỏi: “Vậy biểu hiện bề ngoài của người chết vì trẩm độc, có phải rất giống trúng độc tỳ sương không?”
“Đương nhiên, dù sao nguyên liệu chủ yếu vẫn là tỳ sương mà, những thứ khác chỉ là phụ thôi. Có điều độc tính mạnh hơn tỳ sương bội phần. Uống lầm lượng nhỏ tỳ sương cũng không sao, còn trẩm độc chỉ một giọt là đủ lấy mạng cả trăm người.” Nói đoạn, Lý Thư Bạch lại nhìn lọ thuốc độc Chu Tử Tần mới chế, “Xem ra Phó Tân Nguyễn và Ôn Dương chết vì trẩm độc lượt hai.”
Hoàng Tử Hà bèn hỏi: “Vấn đề là, một người xuất thân từ làng ca múa, lại ở tít quận Thục, tự vẫn cùng tình lang chưa hề ra làm quan, tại sao lại dùng trẩm độc từ đại nội hoàng cung?”
“Hơn nữa, theo lời vương gia nói thì trẩm độc hiện giờ cũng gần như tuyệt tích trong cung, họ lấy đâu ra được nhỉ?” Nói đến đây, Chu Tử Tần bỗng sáng mắt lên, nhìn Hoàng Tử Hà, nói như reo, “Này Sùng Cổ! Không chừng lần này chúng ta lại gặp một vụ kinh thiên động địa rồi!”
Hoàng Tử Hà ngán ngẩm gật đầu, “Ừm, xem ra... đằng sau nhất định còn ẩn giấu bí mật chúng ta chưa biết.”


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui