Việc thu xếp hành trang của tôi chẳng lâu la gì.
Grover tìm ba lô cho tôi. Quyết định để sừng quỷ đầu bò ở nhà, tôi chỉ việc nhét thêm một bộ quần áo để thay đổi và bàn chải đánh răng vào đó là xong.
Cửa hàng của trại hè cho tôi vay một trăm đô la tiền thường và hai mươi đồng tiền vàng drachma. Tiền này to bằng bánh bích qui, một mặt dập nổi hình các vị thần, mặt kia là tòa nhà Empire State. Bác Chiron bảo để tiện thanh toán trong những giao dịch không thuộc thế giới phàm trần. Tôi chẳng hiểu kiểu giao dịch gì lạ vậy.
Bác đưa tôi và Annabeth mỗi người một bình rượu thần và một bịch lớn bánh hình vuông và dặn chỉ dùng trong trường hợp cấp cứu, tức là có ai trong chúng tôi bị thương nặng. Bác dặn đi dặn lại phải dùng cẩn thận vì là thức ăn của thần thánh. Hễ con lai bị thương, ăn uống hai thứ đó sẽ khỏi. Nhưng người trần ăn sẽ chết ngay. Con lai nếu ăn quá nhiều cũng ốm sốt. Dùng quá liều lượng, chúng tôi sẽ cháy ruột cháy gan, hiểu theo nghĩa đen.
Annabeth mang theo nón lưỡi trai thần mẹ bạn ấy tặng con gái nhân sinh nhật lần thứ mười hai. Ngoài ra, bạn ấy còn mang cuốn sách kiến trúc bằng tiếng Hy Lạp cổ để đọc khi buồn chán và giấu trong ống tay áo con dao dài bằng đồng. Tôi chỉ ngại máy dò kim loại ngoài bến xe phát hiện và đuổi cổ cả ba.
Grover đeo bàn chân giả, mặc quần dài cho giống người trần và đội nón tròn không vành nhỏ xíu che chỏm đầu. Sở dĩ như vậy vì mỗi khi đi mưa, tóc bết xuống sẽ để lộ cặp sừng bé. Ba lô màu cam của Grover đựng đầy mẩu kim loại và táo để ăn vặt cho đỡ buồn miệng. Grover dắt túi áo bộ sáo bằng ống sậy do cha nó tự tay đẽo. Tuy nhiên, nó chỉ biết chơi hai bài: bản Concerto thứ mười hai của Mozart và “Dã Từ Dĩ Vãng” của Hilary Duff. Cả hai đều không hợp với nhạc cụ sáo.
Vẫy tay chào tạm biệt mọi người, ngắm bãi dâu, biển cả và Nhà Lớn lần cuối, chúng tôi nhắm cây thông vốn là Thalia, con gái thần Dớt, trên đỉnh đồi Con Lai thẳng tiến.
Bác Chiron ngồi xe lăn đợi sẵn.
Cạnh bác là anh chàng dáng thể thao tôi từng gặp khi nằm ở phòng bệnh. Grover bảo anh ta là trưởng ban an ninh của trại hè. Anh ta cần có mắt khắp cơ thể để không có gì làm anh ta bất ngờ. Tuy nhiên, hôm nay anh ta mặc quần áo của tài xế nên tôi chỉ thấy mắt trên mu bàn tay, mặt và cổ anh ta.
Bác Chiron giới thiệu với tôi:
- Argus đây sẽ lái xe đưa các cháu vào thành phố, đồng thời để mắt đến mọi thứ.
Chợt có tiếng chân tiến đến gần. Luke cầm đôi giày thể thao chạy lên đồi. Anh thở dốc:
- May anh đuổi kịp mấy đứa.
Mỗi khi đứng gần Luke, Annabeth lại đỏ mặt. Lần này cũng thế. Luke quay sang tôi:
- Anh chỉ muốn chúc các em may mắn. Anh định… em cầm cái này xài đỡ.
Anh trao cho tôi đôi giày trông không có gì khác thường. Thậm chí nó cũng bốc mùi như mọi đôi giày cũ khác. Luke kêu lên:
- Maia!
Cặp cánh chim trắng mọc ra từ gót giày. Tôi giật bắn mình buông tay. Đôi giày bay là là mặt đất một vòng, sau đó cánh cụp lại, biến mất.
Grover reo:
- Thích quá.
Luke tủm tỉm:
- Cái này đã giúp anh rất nhiều hồi anh truy tìm quái vật. Quà của cha anh. Chắc em cũng biết hồi này anh có dùng đến nó mấy đâu...
Anh chợt buồn hiu.
Tôi xúc động không nói lên lời. Luke tình cảm thật, còn đến dã biệt chúng tôi. Mấy ngày gần đây, tôi chỉ ngại anh chạnh lòng vì dù tôi không cố ý, mọi người vẫn để ý đến tôi thay vì tập trung vào anh như trước. Nhưng nhìn xem, anh còn tặng tôi quà quý... Nghĩ đến đây, mặt tôi đỏ không kém mặt Annabeth.
- Percy này, bao hy vọng dồn cả vào chú đấy. Vậy nên... chú ráng hạ đo ván vài tên quái vật cho anh, nhớ chưa?
Anh bắt tay tôi, xoa mảnh đầu giữa hai sừng của Grover và ôm hôm tạm biệt Annabeth làm cô bé suýt ngất vì sung sướng.
Luke đi rồi, tôi bảo Annabeth:
- Trông cậu thở ghê chưa kìa.
- Tớ đâu có.
- Hôm thứ Sáu, cậu nhường cho anh ấy đi giành cờ phải không?
- Này Percy, tớ hết chịu nổi cậu rồi đấy.
Annabeth vùng vằng xuống chân đồi, chỗ có chiếc SUV trắng đậu bên lề đường. Anh Argus vung vẩy chùm chìa khóa theo sau tôi.
Tôi cúi xuống nhặt đôi giày bay, đột nhiên tôi cảm nhận có một điều gì đó thật xấu sắp xảy đến.
Tôi nhìn và hỏi bác Chiron:
- Cháu không thể sử dụng nó đúng không ạ?
Bác ấy lắc đầu bảo:
- Luke có ý tốt. Nhưng nói về bầu trời... Đối với cháu mà nói sử dụng nó chẳng khôn ngoan chút nào.
Tôi thất vọng nhưng phải công nhận rằng bác ấy nói đúng. Chơt tôi nảy ra một ý:
- Grover này, cậu thích giày có phép màu không?
Mắt nó sáng rỡ:
- Cho tớ à?
Chúng tôi bèn xỏ ngày giày vào chân nó. Chuyến bay đầu tiên của anh chàng người dê sắp bắt đầu. Grover hô:
- Maia!
Lúc cất cánh không hề hấn gì, nhưng chỉ lát sau nó lật nghiêng, ba lô trên vai trượt dài trên cỏ. Hai cặp cánh bé xíu cứ chồm lên nhào xuống như con ngựa bất kham.
Bác Chiron nói với theo:
- Phải luyện tập. Cháu cần tập ít bữa mới thành thao được.
- Ahhhhhh!...
Grover bay nghiêng xuống đồi tiến về chiếc xe trông như máy cắt cỏ bị ma nhập. Tôi định chạy theo nhưng bác Chiron đã kéo tay lôi lại.
- Nếu có thời gian, bác sẽ huấn luyện kỹ cho cháu, Hercules và Jason đều tập tành rất lâu.
- Không sao đâu ạ. Cháu chỉ ước…
Tôi im bặt, biết mình vừa suy nghĩ như đứa con hay vòi vĩnh. Tôi ước cha cho tôi một vật màu nhiệm có thể giúp tôi thực hiện nhiệm vụ này: một món đồ hữu dụng như giày biết bay của Luke hay mũ tàng hình của Annabeth.
Bác Chiron kêu lên:
- Bác đang nghĩ vớ vẩn gì vậy nhỉ? Bác không thể để cháu đi mà thiếu vật này được.
Ông lấy cây viết bi trong túi áo đưa cho tôi. Nó bình thường giống cây viết dùng một lần rồi bỏ: mực đen, có nắp đậy giá khoảng ba mươi xu.
- À… ừm. Cảm ơn ạ.
- Đó là quà của cha cháu, bác giữ lâu lắm rồi. Lúc đó bác không biết người bác chờ đợi là cháu. Nhưng giờ bác đã hiểu trọn vẹn Lời Sấm Truyền. Cháu chính là nhân vật đặc biệt Nhà Tiên Tri nói tới.
Nhớ trong chuyến thăm quan Viện Bảo tàng Metropolitan, trước khi cô giáo bốc hơi trước mặt tôi, bác Chiron có ném cho tôi cây viết, sau đó nó biến thành thanh kiếm. Liệu có phải…
Tôi mở nắp. Cây bút dài ra, nặng trĩu. Chưa đầy nửa giây sau, trong tay tôi là thanh kiếm đồng sáng loáng hai lưỡi đều sắc ngọt. Chuôi kiếm bằng da có cẩn vàng ròng trang trí. Lần đầu tiên có thanh kiếm vừa tay tôi như vậy.
Bác Chiron bảo:
- Có một lịch sử dài bi tráng gắn liền với cây kiếm này. Nhưng thôi, cháu không cần biết làm gì. Tên nó là Anaklusmos.
Tôi dịch ngay:
- Nghĩa là Thủy Triều.
Chính tôi cũng ngạc nhiên vì vốn tiếng Hy Lạp cổ của mình.
- Khi nào cần lắm hẵng dùng. Kiếm chỉ tác dụng với quái vật. Tất nhiên anh hùng không nên hại người phàm nếu không thật cần thiết. Nhưng kiếm này đặc biết, nó không hại người trần trong mọi trường hợp.
Tôi nhìn lưỡi kiếm sắc chắc chắn chém sắt như chém bùn:
- Kiếm sắc thế này sao nó không làm người phàm bị thương được?
- Đây là kiếm thần. Sản phẩm từ chính tay người Cyclopes, được tôi trong lòng núi Etna rồi nhúng xuống sông Lethe. Với nó, cháu có thể giết được quái vật hay bất kỳ cơ thể sống nào dưới địa ngục, miễn là chúng chưa kịp ra tay trước. Nhưng lưỡi kiếm chỉ lướt qua cơ thể người phàm như ảo ảnh. Lý do đơn giản là người phàm quá chất phác nên thanh kiếm không giết. Ta nhắc cháu nhớ một điều: Vì là á thần nên cả vũ khí nhà trời lẫn phàm trần đều lấy mạng cháu được. Cho nên cháu phải cẩn thận gấp đôi.
- Cảm ơn bác nhắc nhở.
- Thôi đậy nắp bút lại đi.
Vừa chạm nắp bút, thanh kiếm rút lại thành bút như cũ. Tôi ngại ngần cất bút vào túi áo. Chả là hồi đi học, tôi chúa hay đánh mất bút.
- Không có chuyện đó đâu.
- Chuyện gì cơ?
- Bút này không mất được. Nó có bùa chú nên sẽ trở về túi cháu. Cháu thử đi.
Bụng chỉ sợ mất bút quý nhưng tôi cũng thử ném xuống chân đồi. Bút lẩn ngay vào đám cỏ.
- Đợi chút đi. Giờ lục túi xem có chưa.
Đúng là cây bút có trong túi tôi thật.
Tôi thú nhận:
- Công nhận bút cực kỳ lợi hại. Như nhỡ người phàm nhìn thấy thì sao ạ?
Bác mỉm cười:
- Đã có Màn Sương, đừng lo.
- Bác nói sao, cháu chưa hiểu.
- Trong sử thi Iliad nói rất nhiều về nó. Mỗi khi vật hay thần thánh trà trộn trong thế giới người phàm, họ tạo ra Màn Sương để người phàm không nhận ra. Dù cùng nhìn một sự vật hiện tượng, người phàm nhận thức khác hẳn á thần như cháu. Người phàm chỉ loanh quanh trong cái thực tại bị hạn chế bởi nhận thức của họ.
Tôi cất Thủy Triều vào túi.
Đến lúc này, tôi mới hiểu hết việc mình sắp làm. Tôi sắp rời Trại Con Lai thật rồi. Cắm cúi nhằm phương Tây thẳng tiến, tôi không thể dựa dẫm vào ai vì không có người lớn giám sát, không kế hoạch cứu viện, thậm chí điện thoại di động cũng không (bác Chiron bảo quái vật sẽ lần theo sóng điện thoại di động để tìm ra tôi. Dùng điện thoại di động chẳng khác nào “lạy ông tôi ở bụi này”). Để xua đuổi quái vật nhằm đến được Địa ngục, tôi chẳng có thứ gì khác ngoài thanh kiếm dắt trong người.
- Bác Chiron này... nếu nói các thần bất tử, có nghĩa lịch sử hình thành trước khi có họ, phải không ạ?
- Thực ra trước họ có bốn kỷ nguyên. Thời của người khổng lồ Titan là kỷ nguyên thứ tư. Có người nhầm gọi đó là Thời kỳ Hoàng kim. Thời ta đang sống trong nền Văn minh phương Tây dưới sự trị vì của thần Dớt là kỷ nguyên thứ năm.
- Vậy trước khi có các thần... thế nào ạ?
Bác Chiron mím môi:
- Dù hồi đó chưa ra đời, bác cũng biết người phàm sống trong u tối và man rợ. Kronos, chúa tể các Titan gọi thời ông trị vì là Thời kỳ Hoàng kim bởi con người vô tư, không cần tri thức. Nhưng đó chỉ là luận điệu tuyên truyền. Vua của người khổng lồ không hề quan tâm đến loài người trừ khi ông ta cần họ làm món khai vị hoặc cần giải trí. Chỉ khi Dớt lên nắm quyền và người khổng lồ nhân hậu là Prometheus mang lửa cho loài người, giống loài của cháu mới tiến bộ. Tuy nhiên sau đó Prometheus bị thần Dớt trừng phạt nặng. Theo thời gian, các thần mới thương yêu loài người. Nhờ đó mới có nền Văn minh phương Tây.
- Nhưng các thần không chết. Khi nào nền Văn minh phương Tây còn, các thần cũng còn tồn tại. Thế nên... nếu chẳng may cháu thất bại cũng không phương hại gì lắm, đúng không ạ?
Bác Chiron nhìn tôi cười buồn:
- Không ai biết Kỷ nguyên của phương Tây kết thúc khi nào. Thần bất tử, khổng lồ Titan cũng sống mãi. Hiện chúng vẫn tồn tại dù phải chui nhủi trong tù ngục, mãi chịu đau đớn và trừng phạt. Chúng suy yếu nhưng chưa chết hẳn. Lạy trời đừng để các thần chịu số phận tàn khốc như bọn Titan bây giờ. Nếu không chúng ta sẽ lại sống cảnh tối tăm và hỗn mang như trong quá khứ. Cháu ạ, ta chỉ có thể tuân theo số phận thôi.
- Số phận ư... giá biết số phận đưa ta đến đâu thì hay biết mấy.
- Bình tĩnh nào. Giữ cho đầu óc sáng suốt, tỉnh táo. Hãy nhớ cháu sắp ngăn chặn cuộc chiến tranh lớn chưa từng thấy của nhân loại đấy.
- Bác nói thế, cháu bình tĩnh sao nổi.
Đến chân đồi, tôi quay đầu nhìn lại. Dưới gốc cây thông từng là Thalia, con gái thần Dớt, bác Chiron hiện nguyên hình nhân mã, tay giơ cao cây cung chào tạm biệt. Đúng là nghi lễ tiễn đưa kiểu mẫu của thầy giáo nhân mã.
Argus lái xe đưa chúng tôi qua vùng quê thanh bình tiến vào khu vực phía tây Long Island.
Dù bên cạnh có Annabeth và Grover trông bình thường như bạn đi chung xe khác, tôi vẫn thấy lạ lẫm khi ra đến đường cái. Sau hai tuần ở Trại Con Lai, tôi đi giữa thế giới thực mà tưởng mình nằm mơ. Tôi trố mắt ngắm nghía từ cửa hàng thức ăn nhanh McDonald’s, từ em bé ngồi sau xe cha mẹ, đến mọi biển quảng cáo từ khu mua sắm.
Tôi bảo Annabeth:
- Chưa thấy gì, cậu nhỉ? Đi hơn mười dặm vẫn chưa gặp quái vật nào.
Nó khó chịu nhìn tôi:
- Đúng là óc tảo biển. Nói thế xui xẻo lắm đấy.
- Làm ơn nhắc lại giùm. Sao cậu ghét tớ thế?
- Đâu ai ghét bỏ gì cậu đâu.
- Lại chối rồi.
Annabeth cuộn mũ lưỡi trai trong tay:
- Nghe này… Đúng ra ta không nên đi với nhau. Cha cậu với mẹ tớ là địch thủ mà.
- Nhưng vì sao mới được?
Cô bạn chán nản:
- Cậu muốn bao nhiêu lý do, tớ có đủ bấy nhiêu. Một là, mẹ tớ từng bắt gặp thần Poseidon đưa người tình vào đền Athena. Hành động như thế cực kỳ thiếu tôn trọng. Hai là, mẹ tớ và cha cậu từng tỉ thí, ai thắng sẽ là thần bảo trợ cho thành Athen. Cha cậu tặng dân chúng suối nước biển ngu ngốc, mẹ tớ tặng cây ôliu. Người ta thích quà của mẹ tớ hơn nên họ lấy tên bà đặt cho thành phố.
- Chẳng qua họ thích cây ôliu thôi.
- Thôi, bỏ đi.
- Nếu mẹ cậu hóa phép ra bánh pizza, tớ ủng hộ liền.
- Đã bảo không nói nữa cơ mà.
Ngồi sau vô lăng, anh Argus cười toe toét. Anh không nói gì, nhưng một con mắt xanh lơ mọc sau gáy anh nhìn tôi nhấp nháy.
Đến khu Queens, đường đông khiến xe chạy chậm. Mãi đến hoàng hôn, xe mới vào địa phận Manhattan. Trời bắt đâu mưa. Anh Argus dừng xe trước bến xe buýt Greyhound ở khu thượng Manhattan, gần căn hộ của mẹ tôi và dượng Gabe.
Tờ bướm ẩm ướt dán trên thùng thư có in hình tôi và dòng chữ: BẠN CÓ THẤY CẬU BÉ NÀY ĐU KHÔNG? Tôi nhanh tay xé nó đi trước khi Annabeth và Grover để ý đến.
Xách hành lý xuống, đứng xem chúng tôi mua vé xong, anh Argus đánh xe về. Lúc đưa xe khỏi bãi đậu, con mắt trên mu bàn tay anh còn mở to nhìn chúng tôi.
Nhà tôi ngay gần đây. Nếu như mọi khi, mẹ tôi đi làm về rồi. Ngay lúc này đây, có lẽ Gabe Cóc Chết đang chơi bài và chưa chắc đã nhớ đến bà.
Grover đeo ba lô lên vai. Nó nhìn theo hướng tôi đang nhìn:
- Thắc mắc lý do mẹ cậu lấy ông Gabe chứ gì?
Tôi ngạc nhiên nhìn nó:
- Cậu biết đọc suy nghĩ người khác à?
Nó nhún vai:
- Tớ chỉ biết đọc cảm xúc thôi. Chắc tớ quên chưa thông báo với cậu rằng thần rừng có tài đó. Cậu đang nghĩ về mẹ và cha dượng, đúng không?
Tôi gật đầu tự hỏi Grover còn quên kể với tôi những gì nữa.
- Vì cậu, bà mới lấy ông Gabe. Cậu vô tình gán tên Gabe Cóc Chết cho ông ta nhưng không hiểu cái gì cũng có nguyên do của nó. Ông ấy hôi thật... rùng cả mình. Đứng đây tớ còn ngửi thấy nữa là. Dù cậu không ở bên ông ta cả tuần, tớ vẫn ngửi thấy mùi của ông ta ám trên người cậu.
- Cám ơn lời nhắc nhở. Cảm phiền chỉ giùm nhà tắm công cộng gần nhất.
- Cậu nên biết ơn vì điều đó. Cha dượng cậu hôi đến lợm giọng, đủ ngụy trang cho mọi á thần. Chỉ cần ngửi mùi hôi của ông ta trong chiếc Camaro, tớ biết nhờ ông ấy nên cậu không bị phát hiện. Nếu mỗi mùa hè, cậu không ở cạnh ông ta, chắc chắn quái vật lần ra cậu lâu rồi. Mẹ cậu ở với ông ấy để bảo vệ con trai. Bà ấy cực kỳ khôn ngoan đấy. Hy vọng cậu vui khi biết mẹ hẳn yêu mình lắm nên mới ngậm bò hòn làm ngọt sống chung nhà với ông ấy.
Tôi không vui, nhưng cố ngăn cảm xúc lộ ngoài mặt. Tôi nghĩ thầm: “Mẹ chưa chết. Mẹ và con sẽ còn gặp nhau.” Cảm xúc tôi lẫn lộn thế, không biết Grover còn đoán được không.
Tuy vui vì có hai bạn đi cùng, nhưng tôi biết mình có tội vì không thẳng thắn với họ. Tôi đã không nói thật lý do chính khi nhận nhiệm vụ khó khăn này.
Sự thật là tôi không quan tâm đến tia chớp của thần Dớt hay cứu thế giới hoặc thậm chí giúp cha trong lúc khó khăn. Càng nghĩ tôi càng giận cha vì ông chưa bao giờ nhìn mặt con, hay giúp mẹ tôi, hay thực hiện trách nhiệm tài chính bằng cách gửi tiền đóng góp nuôi con. Ông chỉ nhận tôi là con khi cần người giúp việc cho mình.
Tôi chỉ quan tâm đến mẹ mà thôi.
Nếu Hades không biết phải trái, cố tình bắt mẹ tôi, ông ta phải trả mẹ cho tôi.
Lời Sấm Truyền văng vẳng bên tai: Ngươi sẽ bị phản bội bởi người tự xưng là bạn. Cuối cùng, ngươi sẽ không cứu nổi người quan trọng nhất của đời mình.
Tôi thầm ra lệnh: “Câm đi.”
Mưa vẫn rơi như trút.
Sốt ruột chờ xe chạy, chúng tôi lấy mấy quả táo của Grover chơi tung hứng. Annabeth khéo không thể tả. Bạn ấy có thể dùng đầu gối, khuỷu tay, vai... hất táo lên cao. Tôi chơi cũng không tồi.
Trò chơi kết thúc khi tôi ném trái táo về phía Grover. Nó bay đến miệng cậu ta. Chỉ một cái há miệng thật to của Grover, trái táo biến mất, cả cuống lẫn lõi đều không còn.
Grover đỏ mặt tính xin lỗi nhưng tôi và Annabeth mải cãi nhau nên không để ý.
Cuối cùng, xe buýt trờ tới.
Lúc xếp hàng lên xe, Grover nhìn quanh hít hà. Tôi hỏi:
- Sao thế?
Nó căng thẳng:
- Tớ không biết. Chắc chẳng có gì đâu.
Nhưng tôi thấy bất an nên cũng ngoái cổ nhìn.
Cuối cùng, lên được xe, tìm được chỗ ngồi phía dưới, tôi thở phào nhẹ nhõm. Chúng tôi lúi húi cất đồ đạc lên giá hành lý. Annabeth bồn chồn vỗ vỗ lưỡi trai của mũ lên đùi.
Khi mấy hành khách cuối cùng lên xe, cô bạn bấu chặt đầu gối tôi:
- Percy, trông kìa.
Bà già vừa lên xe mặc váy nhung nhàu nhĩ, đeo găng tay viền đăng ten, xách túi in hoa, đội sùm sụp mũ len màu cam đan lạ kiểu che gần hết khuôn mặt. Lúc bà ta ngẩng mặt lên, cặp mắt đen lóe sáng khiến tôi hoảng sợ.
Chính là cô Dodds, tuy già hơn, nhăn nheo hơn nhưng khuôn mặt độc ác đó tôi không sao nhầm được.
Tôi ngây mặt như bị thôi miên trên ghế.
Lên sau bà ta còn hai bà nữa, người đội mũ xanh lá cây, người kia mũ tím. Họ giống hệt cô Dodds: tay xương xẩu, đeo túi hoa, mặc váy nhung nhàu nát. Chính là bộ ba Nữ thần Báo Thù độc ác.
Ba bà ngồi hàng đầu, ngay sau bác tài. Hai người ngồi hai bên lối đi duỗi thẳng chân ra giữa đường làm thành chữ X. Thoạt trông giống họ duỗi chân cho đỡ mỏi, nhưng tôi hiểu họ muốn nói: “Đừng hòng ra khỏi đây.”
Xe rời bến, lăn bánh trên những con phố mưa trơn của Manhattan.
Tôi cố giữ để giọng không bị run:
- Cô Dodds hồi phục nhanh quá. Sao cậu bảo nằm liệt cả đời?
Annabeth cãi:
- Tớ có nói nếu cậu gặp may. Nhìn họ đủ biết cậu không gặp may rồi.
Grover rên rỉ:
- Gặp ba bà một lúc thì mình chết chắc.
Annabeth suy nghĩ rất lung:
- Đừng lo. Nữ thần Báo Thù, ba quái vật kinh khiếp nhất địa ngục. Không sao. Không sao. Ta cứ chui ra cửa sổ là xong.
Grover nhăn nhó:
- Cửa không mở.
- Hay cửa hậu vậy?
Xe không có cửa hậu. Thậm chí nếu có, chúng tôi cũng không thoát được. Đúng lúc đó, xe chạy qua đại lộ số Chín, sắp vào đường hầm Lincoln.
- Họ sẽ không tấn công trước mặt mọi hành khách trên xe.
Annabeth nhắc:
- Mắt người phàm không tinh. Não họ chỉ xử lý thông tin căn cứ những gì thấy qua Màn Sương mà thôi.
- Nhưng nếu ba người kia giết chúng mình, họ cũng phải thấy chứ.
Annabeth trầm ngâm:
- Khó nói lắm. Nhưng ta không nên trông cậy người phàm giúp đỡ. Biết đâu có lối thoát hiểm trên trần xe.
Đến đường hầm Lincoln, trong xe tối sầm, chỉ còn đèn phía trên lối đi. Tự nhiên, tiếng mưa rơi im bặt.
Cô Dodds đứng dậy. Bằng giọng đều đều như tập từ trước, cô nói với mọi người trong xe:
- Tôi phải đi vệ sinh.
Bà thứ hai lên tiếng:
- Tôi cũng vậy.
Bà thứ ba nói theo:
- Tôi cũng vậy.
Họ theo nhau lần theo lối đi.
Annabeth bảo:
- Để đó cho tớ. Percy, đội nón của tớ vào.
- Cái gì?
- Chỉ mình cậu là mục tiêu của họ. Tàng hình rồi theo lối đi lên đầu xe. Cứ mặc họ đi xuyên qua cậu. Biết đâu cậu lên được cửa trên và đi thoát.
- Nhưng còn hai cậu thì sao?
- Rất có thể họ không nhận ra bọn tớ. Nhưng cậu là con của một người trong Bộ Tam Vĩ Đại. Mùi của cậu át hết mùi bọn tớ.
- Tớ không bỏ bạn như thế được.
Grover bảo:
- Đừng lo cho tụi tớ. Đi ngay đi!
Tay tôi run bần bật, thấy mình hèn nhát quá. Nhưng tôi vẫn cầm mũ đội lên đầu.
Khi nhìn xuống, tôi không thấy người mình đâu nữa.
Tôi lò dò đi lên. Sau khi qua được mười hàng ghế, tôi ghé ngồi ghế trống đúng lúc ba Nữ thần Báo Thù đi qua.
Cô Dodds dừng lại, hít hít và nhìn thẳng vào tôi. Tim tôi đập loạn xạ. Rõ ràng bà ta không thấy gì. Bà ta và hai người em của mình tiếp tục đi.
Không bị phát hiện, tôi đi tiếp lên đầu xe.
Xe sắp ra khỏi đường hầm Lincoln. Tôi sắp nhấn núi “Dừng xe khẩn cấp” thì nghe tiếng hét rợn người sau lưng.
Ba người kia không còn là ba bà lão già nua nữa.
Mặt họ giữ nguyên (chắc không thể xấu hơn được) nhưng toàn thân họ đổi thành màu nâu, da dày lên và mọc cánh dơi. Bàn tay bàn chân họ mọc vuốt như thú dữ. Ba túi xách biến thành ba roi da bốc lửa.
Ba Nữ thần Báo Thù vây quanh Grover và Annabeth, vừa quật roi vun vút vừa rít lên:
- Nó đâu rồi? Vật đó đâu?
Hành khách trên xe thét lên, co rúm trên ghế. Đúng là họ có nhìn thấy chuyện bất thường.
Annabeth hét lên:
- Cậu ấy không có ở đây. Đi mất rồi.
Ba nữ yêu quái mình người cánh dơi giơ roi lên.
Annabeth rút dao bằng đồng, còn Grover vơ can nhôm trong túi chuẩn bị ném. Điều tôi làm tiếp theo thật khá bốc đồng và nguy hiểm đến độ đáng được có mặt trên áp phích vinh danh trẻ em hiếu động của năm.
Bác tài mất tập trung. Ông nhìn gương chiếu hậu trong xe cố xem chuyện gì.
Vẫn tàng hình, tôi nắm vô lăng trong tay ông giật mạnh sang trái. Mọi người kêu la, nghiêng hết sang phải. Tôi hy vọng tiếng vừa nghe thấy chứng tỏ ba Nữ thần Báo Thù vừa va mạnh vào cửa sổ.
Bác tài hét lên:
- Ấy chớ! Đừng. Trời ơi.
Chúng tôi giành nhau vô lăng. Sườn xe va mạnh vào tường trong đường hầm, tia lửa bắn tung tóe cả dặm sau xe.
Xe lao nhanh khỏi đường hầm, trở lại màn mưa tầm tã. Người và yêu quái bị quăng quật trong xe. Xe hơi chạy dạt sang hai bên lề đường.
Không hiểu bằng cách nào, bác tài tìm được đường thoát cho xe. Xe buýt lao vút trên xa lộ, vượt qua năm sáu ngã tư, cuối cùng lăn bánh trên đường đất vùng nông thôn New Jersey. Không ai tin ngay cạnh New York có loại đường vừa bé vừa lổn nhổn như vậy.
Bên trái đường là rừng, bên phải là sông Hudson. Lúc này, hình như bác tài đang mất tay lái khiến xe gần lao xuống sông.
Tôi có thêm sáng kiến mới: Kéo thắng dành riêng cho trường hợp khẩn cấp. Xe buýt rít lên, xoay tròn giữa mặt đường nhựa ướt rượt và tông vào gốc cây. Đèn cấp cứu chớp nháy liên tục. Cửa xe bật mở. Bác tài chạy khỏi xe đầu tiên, hành khách cũng chen lấn nhau ra cửa. Tôi nép sau lưng ghế tài xế cho họ ra hết.
Ba Nữ thần Báo Thù hoàn hồn. Họ quật roi về phía Annabeth lúc bạn tôi rút dao hét lên bằng tiếng Hy Lạp cổ, ra lệnh cho họ lùi lại. Grover ném lon rỗng lia lịa. Có lối ra trống trải cho tôi dư sức chạy thoát. Nhưng tôi không bỏ bạn bè.
Tôi cởi mũ tàng hình:
- Này!
Ba Nữ thần Báo Thù quay lại, nhe nanh đe dọa. Lúc này, chạy ra cửa xe là thượng sách. Cô Dodds lom khom đi giữa lối đi, giống hệt lúc đến bên trao bài kiểm tra điểm F cho tôi. Mỗi khi bà ta vụt roi, lửa lại phụt từ dải dây da có gai lởm chởm.
Hai người em xấu xí của bà ta nhảy cóc trên hai dãy ghế hai bên, bò về phía tôi như hai con thằn lằn khổng lồ gớm guốc.
Cô Dodds nói giọng lè nhè của người miền nam, vùng nào đó phía dưới bang Georgia:
- Perseus Jackson. Ngươi đắc tội với các thần. Ngươi phải chết.
- Trông bà ghê quá. Sao, hồi này hết dạy toán rồi à?
Bà ta gầm lên.
Annabeth và Grover rón rén theo sau ba Nữ thần Báo Thù tìm lối ra. Annabeth cầm dao đi trước nhưng tôi không để bạn ấy làm cái việc đáng lý tôi phải làm.
Tôi rút bút bi trong túi áo và mở nắp. Thủy Triều vươn dài thành thanh kiếm hai lưỡi sáng loáng.
Bà yêu quái khựng lại.
Cô Dodds từng nếm trải mùi lợi hại của Thủy Triều nên không thích lần “tái ngộ” này.
Mụ rít lên:
- Nộp ngay ra đây. Nếu không, ngươi sẽ bị hành hạ đến muôn đời.
Tôi khích bác:
- Ta không sợ đâu.
Annabeth thét:
- Percy, coi chừng!
Cô Dodds vung roi quấn quanh kiếm Thủy Triều, còn hai bà em hai bên cùng lúc nhào vào tôi.
Tay nóng rẫy như bị nhúng vào chì nấu lỏng nhưng tôi quyết không buông kiếm quý. Tôi thúc chuôi kiếm sang trái khiến yêu quái ngã chổng kềnh trên ghế, sau đó chém sang phải. Ngay khi kiếm chạm vào cổ, yêu quái nổ tung, biến thành bụi. Annabeth vật ngửa cô Dodds còn Grover thừa cơ xông vào tước roi da.
Nó kêu oai oái:
- Ối! Nóng... Nóng quá.
Yêu quái bị tôi đánh bằng cán kiếm lại xông đến nhưng tôi đã vung kiếm chém xuống xẻ đôi người mụ.
Cô Dodds ráng vung khỏi vòng tay Annabeth siết từ phía sau. Bà ta vừa đấm đá, vừa cào cấu và rít lên kinh khiếp. Nhưng Annabeth không chịu buông tay, còn Grover dùng ngay roi trói chân bà ta. Xong xuôi, cả hai xô bà ta ngã sõng soài giữa lối đi. Bà ta cố gượng dậy nhưng lối đi hẹp không giang cánh được nên đành nằm vật xuống.
Bà ta rủa xả:
- Thần Dớt sẽ hủy diệt ngươi. Hades sẽ bắt linh hồn ngươi cho xem.
Tôi hét lên bằng tiếng Latinh dù không biết mình học những từ ấy khi nào:
- Họ đừng hòng làm gì tôi.
Sấm vang rền làm rung chuyển xe buýt. Tôi nổi da gà, tóc dựng ngược.
Annabeth gào to:
- Ra ngoài! Mau!
Không cần nhắc, tôi cũng hết muốn ở trong này.
Ba chúng tôi vội nhao ra cửa và thấy hành khách, người thì sợ hãi đi tới đi lui, người thì cãi cọ với bác tài. Có người bấn loạn chạy quanh, miệng gào lên:
- Thế này thì chết thôi, sống làm sao được.
Trước khi tôi kịp đậy nắp bút, một hành khách mặc áo sơ mi hoa sặc sỡ giơ máy chụp hình về phía tôi bắn lia lịa.
Grover nhắc:
- Hành lý! Tụi mình quên trên…
ĐÙNG!
Xe buýt phát nổ, lửa phụt từ cửa sổ vỡ hết kính. Hành khách chạy tứ tán tìm nơi ẩn nấp. Sét đánh trúng nóc xe, nhưng tiếng rên căm tức từ trong xe phát ra cho thấy cô Dodds chưa chết.
Annabeth bảo:
- Chạy thôi. Bà ta gọi cứu viện. Mình đi ngay mới kịp.
Ba đứa lao thẳng vào rừng dưới trời mưa tầm tã. Sau lưng xe buýt cháy rừng rực nhưng phía trước trời tối như bưng lấy mắt.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...