Nguyên Vũ đưa cho tôi một chiếc đèn lồng(1), tôi nói cảm ơn rồi chậm rãi trở về.
Tôi vừa đi vừa thầm đoán xem Nguyên Phi Yên sai Hương Cần nói với
Tống Minh Lỗi chuyện gì, kỳ quái là, xem ra Tống Minh Lỗi không có chút
ngạc nhiên nào, giống như là bình thường Nguyên tiểu thư vẫn hay truyền lời tới. Chẳng lẽ họ muốn học tập Tây sương ký(2), giống Thôi Oanh Oanh trộm gặp chàng Trương. Tuy Tống Minh Lỗi là một
thiếu niên văn võ song toàn, Nguyên Phi Yên coi trọng huynh ấy cũng
không lạ, nhưng suy cho cùng cũng chỉ là một gia thần chẳng có công
danh.
Tôi định hỏi rõ Cẩm Tú, nếu Nguyên Phi Yên thật sự vừa ý Tống Minh Lỗi, vậy thì kế hoạch ngọt ngào hai nữ một chồng(3) của Bích Oánh rất có thể sẽ biến thành ác mộng tiểu Hàn Tín bị Nguyên Phi Yên và Hương Cần chiếm lấy rồi.
Nhớ tới Bích Oánh số khổ, tôi thầm than một tiếng, rẽ vào một con
đường nhỏ rồi bước nhanh hơn. Trời đang dần tối, vừa bước vào khu rừng
Tây Lâm tĩnh mịch, một làn sương mù dày đặc bỗng phủ xuống. Tôi không
nhìn được rõ phương hướng, chỉ có thể lò dò tìm đường dựa vào cảm giác,
ánh sáng yếu ớt của chiếc đèn lung lay trong gió, chợt sáng chợt tắt.
Bỗng chân bị vấp một cái, tôi té lăn ra, hai tay chống xuống một mảng đất ướt ướt, chẳng lẽ không cẩn thận bước vào bùn rồi sao? Tôi vội vàng nhấc đèn lên, ổn định tinh thần rồi nhìn xuống tay. Tôi giật mình kinh
hãi, cả hai bàn tay dính đầy máu tươi, đốt đèn lên soi thì thấy đằng
trước có một người khắp mình toàn máu là máu, người nọ đang mặc quần áo
màu xanh cho hạ nhân ở Tây Phong Uyển.
Tôi đánh bạo đi tới dò hơi thở của người đó, thì ra đã sớm tắt thở
rồi. Đang run rẩy muốn quay về kêu cứu tôi lại nghe thấy tiếng bước chân từ phía trước truyền tới. Tôi vội vàng thổi tắt đèn, bò ra sau một gốc
cây lớn. Trong đêm tối, xuất hiện hai bóng người, một cao một thấp. Một
người trong đó đánh lửa lên, cả hai đều mặc một y phục dạ hành, che mặt, bước tới bên thi thể.
Người cao liếc thi thể trên mặt đất một cái rồi nói với người thấp:
“Trúng Đoạn trường hồng cửu phẩm của ta mà còn có thể lết được tới Tây
Lâm, không hổ là người U Minh giáo.”
Người thấp đối với người cao rất cung kính: “Đại nhân tính toán như thần, chẳng trách chủ công tín nhiệm đại nhân như vậy.”
“Bớt nói nhảm đi, tìm kiếm thế nào rồi? Có tìm được vật ấy không?”
“Tiểu nhân đã lục soát khắp từ trên xuống dưới Ngọc Bắc Trai rồi,
không thấy gì cả, về phần Tây Phong Uyển…. xin đại nhân thứ tội, “Mai
hoa thất tinh trận” mà lão Hàn Tu Trúc kia bày ra thực sự rất cao siêu,
tiểu nhân không có cách nào lẻn vào được.”
“Đồ vô dụng, còn thượng phòng ở Tử viên thì sao?”
“Huynh đệ ở Tử viên cũng nói là không có gì, trừ phi Tử Tê sơn trang
có ám các, tiểu nhân vốn định lục lại toàn bộ sơn trang một lần, chỉ là
Liễu Ngôn Sinh và phu nhân đã trở về, không thể làm gì nữa.”
“Chủ công sắp khởi binh rồi. Trước lúc đó, nhất định phải tìm ra “Vô
Lệ kinh” trước U Minh giáo. Bằng không chờ đại quân vào thành Tây An
rồi, nhiều người phức tạp, khó mà tìm được.”
“Dạ! Xin hỏi đại nhân, tiểu nhân có phải xử lý thằng nhãi này theo quy củ cũ không?”
“Đi thôi.”
Một âm thanh “xèo, xèo” kỳ quái truyền tới từ sau gốc cây, kèm theo
một mùi tanh tưởi bốc lên. Tôi len lén ghé mắt nhìn, đã thấy hai người
kia biến mất trong đêm đen, ôi, nhìn như trong phim vậy!
Mà xác chết kia bắt đầu phản ứng hóa học gì đó, dưới ánh trăng, máu
loãng đang xèo xèo hòa tan với bọt trắng. Tôi sợ nổi cả da gà, không ngờ một cảnh tượng như trong phim kinh dị lại thật sự xảy ra trước mắt
mình, thực vô cùng kinh khủng.
Có vẻ thi thể kia đã tan gần hết, tôi liền chạy tới, đánh lửa thắp đèn lồng lên nhìn lại chỉ còn thấy một bãi bọt trắng.
Trong đêm khuya vắng lặng, trăng vắng sao thưa, cô gái mềm yếu đứng
cạnh một xác chết bị hóa nước, thân mình run run như lá khô trong gió(4). Sau đó có một hơi thở không hề báo trước mà thổi bên tai, khiến tôi sợ muốn vỡ tim.
“Ngươi đã hóa thi của hắn?” Một giọng nam nhẹ nhàng truyền tới từ phía sau, so với đêm đông còn lạnh hơn.
Tôi hét lên một tiếng, đèn lồng trong tay cũng bị ném xuống đất. Quay người lại thì thấy một bóng người cao lớn, mái tóc đen dài bay
bay, tà áo trắng phất phơ trong gió. Trên mặt y còn đeo một chiếc mặt nạ gốm màu trắng(5), đường nét trên mặt nạ rõ ràng, biểu cảm ác nghiệt, tựa như một pho
tượng cổ Hy Lạp, không có con ngươi, không có hơi thở, cứ như quỷ vậy.
Tôi kinh hãi ngã ra đất, há miệng muốn nói nhưng hồi lâu vẫn không
thốt được tiếng nào. Y rốt cuộc là người hay quỷ, chẳng lẽ là hồn ma của người vừa mới chết kia?
Bóng trắng kia nhẹ nhàng tiến gần đến, tôi mới chật vật thốt được một câu: “Không, không,.. không phải do ta giết, ngươi, ngươi,… là ai?”
Bỗng nhiên bóng trắng biến mất, đúng lúc tôi cho rằng mình vì quá
kinh hãi mà sinh ảo giác thì hơi thở kia lại xuất hiện bên tai.
“Ngươi là người của U Minh giáo từ nước Đại Lý?” Hắn lại mở miệng, giọng nói tuy ưu nhã như lại lạnh không gì sánh được.
“Ta, ta,…. không phải là… gian… tế, cái “Vô Lại kinh”(6) gì đó….” Tôi muốn bò ra sau, nhưng chân cứ nhũn ra.
“Ngoan ngoãn nói cho ta biết, chủ nhân của ngươi là ai, vì sao muốn
tìm Vô Lệ kinh? Nếu không nói, ta sẽ khiến ngươi muốn chết không được,
muốn sống không xong.” Y nói rất mềm mỏng, nhẹ nhàng, giống như phục vụ ở quán cơm nói với khách: tôi có thể thu tiền không, có cần tôi gói lại
giúp ngài không?
Tôi liều chết, chỉ vào chiếc mặt nạ: “Ngươi, ngươi là ai, tối thế này mà toàn thân lại mặc đồ tang, mặt còn đeo mặt nạ nhìn như quỷ, ngươi,
ngươi cho là ngươi đang đóng phim sao?”
Lời vừa ra khỏi miệng, tôi đã thấy hối hận, mà cái người áo trắng thần bí kia cũng trở nên trầm mặc…
Hồi lâu, y vươn hai tay vẫn chắp sau lưng ra, ngón tay thon dài,
trằng mềm như tay con gái, tôi không khỏi suy nghĩ vẩn vơ, đôi tay này
trơn bóng, trắng bóc như mấy đôi bao tay của các nữ minh tinh trên quảng cáo vậy. Chẳng lẽ dưới lớp mặt nạ kia chính là một cô gái xinh đẹp, cố ý dùng giọng nam để lừa tôi.
“Ngươi nói chuyện rất thú vị, tiếc thay một người thú vị như thế lại
phải rời khỏi cõi đời này.” Người áo trắng vừa im lặng lúc lâu rốt cục
cũng mở miệng, giọng nói không chút gợn sóng đã kết thúc phút ngơ ngẩn
của tôi.
Bóng người đó chợt lóe, ngực tôi bị đánh một cái, vô cùng đau đớn,
oái, tên khốn này lại dám đánh vào bộ ngực còn chưa phát dục hết của
tôi, tên khốn này, đau quá đi mất.
Tôi phụt ra một ngụm máu tươi, đôi tay trơn mịn kia bóp chặt yết hầu
tôi, chiếc mặt nạ tái nhợt của y tựa như khuôn mặt của thần chết. Không
khí trong phổi ngày càng ít, đúng lúc tôi cho rằng mình sắp gặp lại quỷ
Đầu trâu, Mặt ngựa thì bóng người trước mắt chợt động, một giọng nói
quen thuộc giận dữ hét lên: “Mau buông tay, ngươi là người phương nào?”
Mà tôi đã hoàn toàn chìm vào bóng tối.
Lúc tỉnh lại, ánh nắng chói chang chiếu vào mắt tôi, hình như trời đã sáng rồi. Tôi còn đang hoang mang không biết mình đang ở đâu, chiếc mặt nạ kinh khủng đêm qua lại hiện lên trong đầu, tôi hé mắt ra.
“Mộc Cẩn, tỷ có sao không?” Một thiếu nữ mười lăm tuổi tuyệt đẹp đứng bên cửa sổ, tóc tết thành hai bím, vui mừng đi về phía tôi, đôi mắt tím lấp lánh như pha lê.
Tôi kích động ngồi dậy: “Con nhóc này, cuối cùng cũng chịu về rồi.” Nhỏ dựa đầu vào lòng tôi.
Đây chính là muội muội song sinh của tôi, Hoa Cẩm Tú, có điều nhỏ lại đụng trúng cái cổ đang đau, khiến tôi không khỏi kêu ra tiếng, nhỏ liền nhanh chóng buông ra.
Tôi cầm lấy gương đồng, chỉ thấy trên cổ lằn một đường xanh tím, nhớ
tới sát ý của kẻ áo trắng hôm qua, tôi rùng mình một cái. Cẩm Tú dịu
dàng xoa cổ cho tôi: “Sao hôm qua không bảo Tống Minh Lỗi tiễn tỷ, một
cô nương sao đường lớn không đi, lại chui vào cái khu Tây Lâm ấy, tỷ
muốn chết sao?”
“Hôm qua là muội cứu ta sao?”
“Đương nhiên, tỷ cho là còn ai dám vì tỷ đi vào Tây Lâm đáng sợ ấy?” Nhỏ giận dỗi nhìn tôi.
Tôi sốt ruột hỏi: “Vậy muội có bị thương không?”
Nhỏ lắc đầu: “Muội liên hợp với Sơ Họa, tên áo trắng kia cũng không chiếm được ưu thế. Mà người nọ rốt cục là người phương nào?”
Tôi kể lại toàn bộ tình cảnh ngày hôm qua một lượt, Cẩm Tú nghe xong
thì lông mày nhíu chặt lại. Lúc này, Bích Oánh bưng một bát cháo nóng
hổi bước vào, nước bọt của tôi bắt đầu tứa ra, Cẩm Tú còn lảm nhảm cái
gì mà Tây Lâm là cấm địa, gan tỷ lớn quá, không muốn sống nữa,… đều nghe không vào nữa, tôi chỉ gật bừa rồi chắp tay tựa như cún con nhìn Bích
Oánh đòi ăn.
Cẩm Tú nghiêm mặt lại, vừa đẩy tay tôi ra vừa cười với Bích Oánh: “Tam tỷ, để muội đút cho con sâu tham ăn này đi!”
Ô hay! Con bé này càng ngày càng không biết lớn bé gì nữa, thế mà
Bích Oánh lại gật đầu cười, đưa bát cháo qua. Tôi không vui hét lên:
“Này, tay tỷ vẫn rất khỏe, tự ăn được.”
“Đúng vậy, đúng vậy, còn khỏe lắm, còn có thể đi dạo Tây Lâm lúc nửa
đêm nữa ấy chứ!” Nhỏ thổi nguội một thìa cháo rồi đưa tới trước mặt thì
tôi mới phụng phịu uống.
Bích Oánh cười phì: “Mộc nha đầu đừng mất hứng, hôm qua Ngũ muội tới
Đức Hinh cư một lúc, nghe nói muội đi Tây doanh thì lập tức đi tìm, sau
đó cả đêm toàn lo lắng, không chợp mắt chút nào.”
Nàng giúp tôi tháo tóc ra, thành thạo tết lại thành bím.
Lúc này tôi mới để ý đến quầng thâm quanh mắt Cẩm Tú, cảm thấy hơi áy náy, tôi đón lấy cái bát: “Đừng đút cho ta nữa, muội mau đi nghỉ đi.
Đến lúc quay về Tử viên, phu nhân lại cho gọi muội, cơ thể muội làm sao
chịu nổi?”
Nhỏ lắc đầu: “Không sao, muội đã nói chuyện đêm qua cho Liễu tổng
quản với lại cũng xin phu nhân cho nghỉ rồi. Muội sợ tên áo trắng kia
nhận ra mặt tỷ sẽ tới giết người diệt khẩu, mấy ngày này, muội sẽ ở cùng tỷ.”
Nghe xong mà tôi run bắn cả mình: “U Minh giáo kia có lai lịch thế
nào, còn có nước Đại Lý gì đó nữa? Vô Lại kinh? Đó là cái gì?”
Cẩm Tú đáp: “U Minh giáo là ma giáo lớn nhất trong giang hồ, thế lực
cực lớn, tổng bộ đặt tại Miêu Cương. Sau khi bại bởi thập đại cao thủ
của Trung Nguyên hai mươi năm trước, họ rất ít giao thiệp với Trung
Nguyên. Còn cái mà tỷ nói là Vô Lệ kinh, không phải là Vô Lại kinh,” nhỏ lườm tôi một cái “Đó là một bộ trong Vô tướng thần công – một trong năm bảo vật của võ lâm. Vô tướng thần công được chia làm hai bộ Âm kinh và
Dương kinh, là mơ ước của mỗi người luyện võ, nghe kể lại, Vô Lệ kinh
chính là Dương kinh. Có điều Đại Lý quốc gần đây có động tĩnh khác
thường, Liễu tổng quản đã cùng phu nhân thương lượng đối sách.” Tôi nghe mà cái hiểu cái không.
Bích Oánh chải đầu xong cho tôi rồi hạ giọng nói: “Mộc Cẩn, tỷ xin
Chu đại nương cho nghỉ giúp muội rồi đó, muội cứ trò chuyện với Cẩm Tú,
chút nữa thì nghỉ ngơi đi.” Nói xong liền tới phòng giặt đồ.
Cẩm Tú đút cho tôi ăn xong liền kéo tôi đến bờ suối tản bộ, khí trời
rất lạnh, ngắm nhìn mai đỏ nở rộ trong Tây Phong Uyển, lòng tôi chợt thả lỏng. Tôi háo hức cười nói: “Sắp tới lễ mừng năm mới rồi, Cẩm Tú, năm
nay chúng ta sẽ cùng nhau bước qua năm cũ.”
Đôi mắt tím long lanh như nước nhìn tôi đang vui vẻ gật gù, chợt có
chút lúng túng: “Mộc Cẩn, vào xuân Nhị tiểu thư sẽ lên kinh tuyển tú,
cho nên, có thể năm nay muội phải theo phu nhân, tiểu thư tiến kinh mừng năm mới.”
Tôi không khỏi ngẩn ngơ, nụ cười cũng nhạt dần. Trên thực tế, đã ba,
bốn năm tôi và Cẩm Tú không mừng năm mới cùng nhau, nhỏ càng ngày càng
lanh lợi, cũng càng được sủng ái, cũng ít rời khỏi phu nhân, tiểu thư,
cơ hội tôi gặp nhỏ lại càng ít.
Thân làm tỷ tỷ, tôi thực sự vui mừng, thế nhưng là người thân, tôi
không kiềm được cảm thấy cô đơn, thật sự lĩnh hội được tâm trạng không
cần con đóng góp nhiều, chỉ mong con thường về nhà của các bậc cha mẹ.
Cẩm Tú thấy tôi im lặng không nói thì kéo kéo tay tôi: “Đừng vội, Mộc Cẩn, muội sẽ nghĩ biện pháp giúp tỷ vào Tử viên, bây giờ thân thể Bích
Oánh cũng đã ổn, dù không vào được Tử viên thì tới chỗ Tam gia, Tứ gia
cũng tốt hơn ở phòng giặt đồ, đúng không!”
Tôi cười gật đầu, nhỏ bỗng sực nhớ ra: “Mộc Cẩn, chúng ta đều lớn
rồi, nam nữ có khác, tỷ đừng… ở cùng một chỗ với Tống Minh Lỗi nữa.”
Tôi cười: “Đúng là tư tưởng phong kiến, mà từ lúc nào muội không biết phân lớn nhỏ gì nữa thế, đừng có kêu Tống Minh Lỗi tới, Tống Minh Lỗi
lui như thế nữa, phải gọi là Tống nhị ca. Bị người khác nghe được không
phải bắt được nhược điểm của muội sao?”
Nhỏ hít một hơi, móc ra một tờ giấy, “Đây có phải thơ của tỷ không?”
Cái này là trước đó vài ngày, để kỷ niệm Bích Oánh có biến chuyển tốt,
tôi đổi tên cái phòng cũ nát đã ở sáu năm nay thành Đức Hinh cư, trong
lúc hứng chí mới viết ra bài Lậu thất minh của Lưu Vũ Tích(7).
“Đúng vậy.” Tôi gật đầu cười hì hì.
“Vậy từ khi nào lại thành tác phẩm lớn của Tống Minh Lỗi vậy?” Đôi mày liễu của Cẩm Tú dựng hết cả lên.
“Mấy hôm trước, huynh ấy không khéo nhìn thấy, cảm thấy rất thích nên xin ta cho chép lại, thực ra cũng do ta chủ động nhường cái danh nghĩa
ấy cho Tống nhị ca.” Tôi nhát gan quay đầu đi, hoàn toàn chẳng có chút
phong độ của tỷ tỷ.
Cẩm Tú tỏ vẻ chán nản, bỗng nhiên vươn tay như điện, nhéo lấy mặt tôi. Tôi hét lên: “Con nhỏ bạo lực này, lại bị làm sao vậy?”
“Làm sao vậy?! Tỷ, tỷ, cái đồ ngu ngốc này có biết bài thơ đó đã được truyền tới tay Nguyên lão gia không? Ông ấy đọc được liền khen không
dứt, nói là mấy năm nay chiến loạn liên miên, triều cương bại loạn, mà
quý tộc thì xa xỉ phóng túng khiến bách tính phải sống lưu lạc khắp nơi, chịu đủ khổ nạn, áng thơ này có thể mang làm gia huấn, dạy con cháu
phải biết cần kiệm, trị gia, ngay cả Hoàng thượng đọc xong cũng vô cùng
vui mừng. Bây giờ khắp nơi đều lưu truyền bài thơ này mà tỷ còn hỏi “làm sao vậy”. Tống Minh Lỗi là cái loại gì mà dám đạo văn, làm rối kỉ cương như vậy, hắn cho rằng mình là ai chứ?”
Tôi cười khẽ: “Xem chừng, tiểu ngũ nghĩa chúng ta lại sắp có người vang danh Tử viên, đúng là vận may tới không ngừng.”
Nhỏ lại càng tức giận hơn: “Tỷ còn cười, muội thật không hiểu, trong
sơn trang này có biết bao người tranh nhau biểu lộ tài hoa trước mặt chủ nhân, còn tỷ lại muốn ở trong căn phòng xập xệ này chăm sóc một người
bệnh lao, lại còn cam lòng cho bọn tiểu nhân lợi dụng.”
Tôi ngừng cười, nghiêm mặt nói: “Hoa nhị tiểu thư, muội phải chú ý,
cái người mắc bệnh lao trong miệng muội là Tam tỷ, còn tiểu nhân kia
chính là Nhị ca kết nghĩa của muội.”
“Thế thì làm sao? Được, muội không nói Bích Oánh nữa, chỉ nói tên
Tống Minh Lỗi kia thôi. Hắn cũng chẳng phải thứ tốt gì. Cái đầu của tỷ
rốt cục đang nghĩ gì? Vì sao không cho muội đem những suy nghĩ của tỷ
nói cho tướng quân, phu nhân? Vì sao lại để Tống Minh Lỗi được lợi như
vậy?”
“Muội và Tống nhị ca chắc có hiểu lầm gì đó, sao lại…”
“Hừ, bây giờ bọn muội đều là làm vì chủ, muội là người đại phòng, còn hắn lại là thủ hạ của Bạch Tam gia.”
Giờ thì tôi đã hiểu vì sao Vu đại ca đã lên kinh mà Tống Minh Lỗi vẫn phải ở lại Tử viên, mà ngay cả người dưới cũng có thể làm khó huynh ấy, thì ra là do phu nhân.
Tôi kéo tay Cẩm Tú ngồi xuống một gốc cây khô, nhẹ nhàng nói: “Cẩm Tú có thể suy nghĩ cho Mộc Cẩn như vậy, tỷ rất cảm động, có điều tỷ làm
vậy là có nguyên nhân, Cẩm Tú có biết vì sao năm đó tỷ muốn lập ra tiểu
ngũ nghĩa không?”
Cẩm Tú quay đầu nhìn dòng suối, buồn bã nói: “Bán thân làm nô, tiền đồ khó dò, kết nghĩa tương trợ, cùng vượt khó khăn.”
Tôi gật đầu rồi cũng quay sang ngắm suối nước đang chảy róc rách:
“Chính là như vậy, Cẩm Tú, tiểu ngũ nghĩa chúng ta như người một nhà,
cùng vinh cùng nhục, bây giờ Tống Minh Lỗi, Vu Phi Yến và muội có thể
được chủ nhân Tử Tê sơn trang ưu ái là may mắn của tiểu ngũ nghĩa ta,
chúng ta phải giúp đỡ lẫn nhau chứ không phải tranh chấp, giằng xé
nhau.”
Tôi ngừng lại thấy Cẩm Tú tỏ vẻ khinh thường. Hừ, con nhỏ này, tôi không thèm chấp một đứa nhóc đang trong thời kỳ trường thành!
“Mặc dù làm việc vì chủ nhân thì giờ cũng không phải là lúc muội
tranh chấp với Tống nhị ca, hiện nay Nguyên gia nhòm ngó ngôi báu Trung
Nguyên, đến lúc hoàn thành bá nghiệp rồi hãy nói.” Tôi cố ý nhấn mạnh.
Mà Cẩm Tú kinh ngạc quay đầu lại: “Sao tỷ biết được?”
Để thể hiện người tỷ tỷ như tôi cơ trí thạo đời, tôi quyết định không nói cho nhỏ biết Tống Minh Lỗi đã sớm ngả bài với tôi mà chỉ cười nhạt: “Bởi vì tỷ là Hoa Mộc Cẩn.”
Nhỏ hiểu ra thì hừ nhẹ một tiếng: “Vốn muội cũng chẳng muốn tranh
chấp với hắn, chỉ là không nhịn được khi thấy hắn vô liêm sỉ đạo văn của tỷ, lợi dụng lòng tốt của tỷ.”
Nghe xong tôi thấy lòng thật ấm áp, giọng nói cũng mềm mại hơn, cẩn
thận khuyên nhủ: “Cẩm Tú, muội cũng biết thế giới này là của nam nhân,
xã hội này sẽ không khoan nhượng nữ tử dám đạp lên đầu nam nhân đâu. Tỷ
cho huynh ấy bài thơ vì, thứ nhất che giấu được tài năng của tỷ, giúp
huynh ấy một bước tới trời, thứ hai là trong tiểu ngũ nghĩa, muội là
người được thăng chức đầu tiên, quanh năm đều không có ở sơn trang, chỉ
có huynh ấy vẫn thường chiếu cố tỷ và Bích Oánh, đây cũng coi như quà
báo đáp. Nếu không muội bảo tỷ nên lấy thân báo đáp huynh ấy sao?”
Cẩm Tú bật cười, ánh mắt sáng long lanh: “Nếu tỷ lấy thân báo đáp chắc gì Tống Minh Lỗi đã vừa lòng?”
“Phải rồi, ta đây thân bồ liễu(8), một người tâm cao khí ngạo như Tống nhị ca đương nhiên không thích.”
Tôi biết lời này là thật nhưng lòng cũng thấy buồn bực, con nhóc này,
tuy tỷ không được phong hoa tuyệt đại như muội thì cũng không nói thẳng
ra như thế chứ, tỷ cũng có tôn nghiêm của phụ nữ chứ.
“Thứ ba là Bích Oánh có tình ý với Tống nhị ca, tỷ cũng đã xem huynh
ấy là Tam tỷ phu rồi, chung quy vẫn nên tìm cách để dựa dẫm, bốn là bây
giờ tuy muội được sủng ái thật, nhưng không tránh khỏi bị người ta ghen
ghét, làm hại sau lưng, huynh ấy được lợi từ chỗ tỷ hẳn sẽ chiếu cố muội nhiều hơn.” Tôi vuốt vuốt tóc nhỏ, “Nói tới nói lui, không phải đều là tỷ tỷ vì muội sao? Muội thực là cái đồ không hiểu chuyện.”
-*-*-*-*-*-*-
(1) trong bản gốc là 气死风 – khí tử phong, tức là đèn không sợ gió. Vật liệu là giấy trắng (từng có thời lấy giấy Cao Ly) rất dày, ngày xưa dùng giấy này để hồ thành cửa sổ. Ở giữa cắm một chiếc nến, gió có thổi cũng không tắt được ngọn đèn này.
(2) Tây sương ký: là vở tạp kịch của Vương Thực Phủ, sáng tác trong khoảng
những năm Đại Đức (1297-1307) đời Nguyên Thành Tông (1295-1307), miêu tả cuộc tình duyên vượt qua môn đăng hộ đối và lễ nghi phong kiến của Thôi Oanh Oanh và chàng thư sinh Trương Quân Thụy.
(3) ý định của Bích Oánh cuối chương 5.
(4) đoạn này là tưởng tượng của Mộc Cẩn.
(5) nhìn khá kinh dị
(6) Mộc Cẩn nghe nhầm “Vô Lệ kinh” thành “Vô Lại kinh”.
(7) Lậu thất minh (Bài minh về căn nhà quê mùa) – Lưu Vũ Tích
Phiên âm:
Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh;
Thuỷ bất tại thâm, hữu long tắc linh.
Tư thị lậu thất, duy ngô đức hinh.
Ðài ngân thượng giai lục, thảo sắc nhập liêm thanh.
Ðàm tiếu hữu hồng nho, vãng lai vô bạch đinh.
Khả dĩ điều tố cầm, duyệt Kim kinh.
Vô ty trúc chi loạn nhĩ, vô án độc chi lao hình.
Nam Dương Gia Cát lư, Tây Thục Tử Vân đình.
Khổng Tử vân: “Hà lậu chi hữu?”
Dịch thơ: (nguồn thivien.net)
Núi dẫu không cao, có tiên nên danh
Sông dẫu không sâu, có rồng nên linh
Căn nhà thô lậu, đức ta tỏa ngời
Rêu phủ giăng thềm biếc, sắc cỏ chiếu rèm xanh
Nói cười chỉ nho gia, qua lại chẳng kẻ phàm
Lại gảy mấy điệu đàn, đọc thánh kinh
Không âm thanh chi phiền tai, chẳng đơn từ gì nhọc mình
Nam Dương lều Gia Cát, Tây Thục Tử Vân đình
Khổng Tử rằng: “Thô lậu nơi nao?”
(8) bồ liễu: Bồ là cỏ bồ ta gọi là cói, liễu là cây liễu. Cố Duyệt đời Tấn
cùng tuổi với Giản Văn đế mà đầu lại bạc trước. Giản Văn hỏi:”Tại sao
bác lại chóng bạc đầu như thế?” Cố đáp:”Bồ liễu chi tư vọng thu nhi
lạc; Tùng bách chi chất, kinh sương độc mậu”. Nghĩa là cây bồ cây liễu
là thứ cây yếu ớt, hễ trông thấy mùa thu đến thì đã rụng và héo rồi.
Tính chất của cây tùng, trải sương tuyết vẫn riêng sum sê. Vì thế người
ta quen dùng chữ bồ liễu để ví phái yếu
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...