Cô nói đúng, mặc dù sở thích của anh không phải vẽ chân dung. Khi còn nhỏ, anh vốn là một đứa bé vụng về có thiên hướng tự làm mình bị thương, và vì thế anh luôn bị giữ trong nhà trong khi việc anh mong mỏi nhất là được ra ngoài, chạy nhảy, lộn nhào và lộn nhào, hay chỉ đơn giản là nằm trên cỏ và quan sát sự thay đổi màu sắc của bầu trời. Vẽ chân dung người nghĩa là phải vẽ trong phòng, trong khi anh thích ở ngoài trời, nắm bắt màu kem hồng rực rỡ của cây anh đào đang nở rộ hoa hay những cảm xúc khó định hình ở một bữa tiệc dã ngoại.
Nhưng khi anh nhìn cô, anh đã bắt đầu tính toán trong đầu tỷ lệ pha trộn giữa màu đất Naples và màu đỏ son, thêm một chút trắng bạc nữa để giống với làn da hồng hào, khỏe mạnh của cô.
“Em đã nói bức tranh là để dành cho bộ sưu tập riêng của em?”
“Đó là ý định của em”.
“Vậy em sẽ không triển lãm nó?”
“Quá quan tâm đến danh dự cho em đấy.” Cô mỉm cười đùa cợt. “Tại sao không bảo em vẽ tranh bán khỏa thân cho đứng đắn?”
“Anh cần một lời hứa”.
Anh vốn là một người dễ dãi. Nhưng anh sẽ không nhường bước trong chuyện này.
“Em muốn có một thứ ghi nhớ tuổi trẻ của mình, để một ngày nào đó em có thể nhìn lại và thở dài trước sắc đẹp đã mất. Em trang trọng hứa với anh rằng không những em sẽ không triển lãm ở bất kỳ đâu, mà em cũng không trưng bày nó trong chính nhà mình. Thay vào đó, em sẽ để nó trong một thùng kín, và không mở ra cho đến khi em nhìn thấy một mụ phù thủy xấu xí trong gương”. Cô mỉm cười lần nữa. “Như thế thỏa mãn anh chưa?”
Anh nuốt nghẹn. “Vậy được rồi. Anh sẽ làm”.
Cô đặt tách trà xuống và nhìn thẳng vào anh. “Trong trường hợp đó, em thấy mình rất sẵn lòng để giúp anh truy lùng lai lịch bức tranh bí ẩn kia”.
Bà Watts đã chết được một phần tư thế kỷ. Vere cho rằng anh quá may mắn khi tìm được người đã từng biết bà ta, chỉ trong vài giờ.
Cuộc tìm kiếm đưa anh từ Bermondsey đến Seven Dials. Chỉ cách những dinh thự hoành tráng của Mayfair một dặm, Seven Dials từng nổi tiếng vì tội phạm và nghèo đói trong suốt những năm đầu thế kỷ. Gần đây, tình trạng của Seven Dials đã được cải thiện nhiều, mặc dù Vere vẫn không thích phiêu lưu trên những đường phố của nó vào ban đêm.
Nhưng bây giờ đang là thanh thiên bạch nhật. Ngõ St.Martin dẫn vào khu này đang láo nháo bởi lũ chim, những người chơi chim của London hay tụ tập ở đây. Anh đi qua một cửa hàng đầy rẫy những con chim hót ở trong lồng: chim sẻ ức đỏ, chim chiền chiện, và chim sáo đá, tất cả đều đang chiêm chiếp và líu lo một cách náo động. Một cửa hàng khác lại bày đầy những lồng chim bồ câu béo đang kêu gù gù. Diều hâu, cú và vẹt rống lên những tiếng chói tai. Anh thấy dễ chịu khi đi đến một khu vực chuyên bày bán những sinh vật ở dưới nước và thỏ, cả hai đều im lặng một cách đáng mừng.
Jacob Dooley sống ở phố Little Earl. Trên phố những đám đông háo hức dạo quanh khu chợ ngoài trời đông đúc, mặc dù Vere nhận ra chẳng có thứ đồ nào được bày bán mà không phải là hàng đã sử dụng lần thứ hai hoặc thứ ba. Anh không biết phụ nữ có thể làm gì với một bộ vòng làm phồng váy, nhưng anh nhìn thấy không phải một, không phải hai, mà là ba nơi quảng cáo, đó là “Đỉnh cao của thời trang!”
Căn hộ của Dooley nằm ở tầng trên cùng của một tòa nhà bốn tầng. Mặt trước tòa nhà là những dòng quảng cáo của hàng tạp phẩm dưới tầng ngầm được viết bằng những chữ cái lớn - Trang trại sữa, cửa hàng thịt Gia đình, Nhà thầu cung cấp Sữa, Cung cấp số lượng lớn. Cầu thang hẹp, tối bên trong bốc mùi nước tiểu nồng nặc.
Vere gõ cửa, một người đàn ông khoảng sáu mươi lăm tuổi, to lớn, râu rậm, tóc và hàng râu quai nón màu muối tiêu xuất hiện. Ông ta đứng sau cánh cửa hé mở, lo lắng săm soi Vere. Vere đã thay trang phục. Bây giờ anh là một tên đánh xe bò lực lưỡng với một hàng râu quai nón xum xuê sánh ngang với râu của Dooley. Bộ quần áo lao động thô ráp bốc mùi đúng như chúng phải thế: mùi của ngựa và bia, nồng nặc như nhau.
“Cậu là ai? Tại sao cậu lại hỏi về bà Watts?” xuất thân Ai-len của Dooley bộc lộ rõ ràng trong giọng nói.
Vere trả lời bằng giọng điệu của vùng Liverpool. “Bà Watts là dì của cha tôi. Mẹ tôi nói với tôi như thế. Cha tôi bỏ đến London để sống với bà Watts.”
Mắt Dooley mở lớn. “Nhưng Ned vẫn còn là một cậu bé khi cậu ta đến sống với bà ấy, chắc chắn thế. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy cậu ta. Nhưng bà Watts nói rằng cậu ta mới mười bốn tuổi khi đến và bỏ đi khi mười sáu tuổi”.
“À, ông ấy có tôi trước khi rời khỏi Liverpool. Ít nhất ông ấy khiến mẹ tôi nghĩ thế.”
Dooley lùi lại. “Thế thì vào đi. Tôi sẽ mời cậu một tách trà”.
Căn hộ chỉ có một phòng, một tấm rèm vàng mỏng treo ở giữa để ngăn cách chỗ tiếp khách và nơi ngủ. Dooley có một chiếc bàn có vẻ nặng nề đến ngạc nhiên, hai chiếc ghế, và một giá sách tự làm với những chồng báo gọn gàng và hai cuốn sách lớn, một trông như Kinh thánh, cuốn còn lại có lẽ là sách cầu nguyện.
Dooley rót nước từ một cái bình vào ấm và bỏ thêm vào đó một nắm lá trà, rồi móc cái ấm đun nước đó lên trên một chiếc đèn cồn. “Cậu vẫn ở với mẹ cậu?”
“Mẹ tôi mất hồi tháng Mười hai năm ngoái. Trước khi chết bà nói với tôi về người cha ruột. Tôi đã hỏi thăm về ông ấy sau khi chôn cất mẹ mình”.
“Cậu may mắn đây, chàng trai”, Dooley nói trong lúc đứng cạnh chiếc đèn cồn. “Theo như lần cuối cùng tôi nghe được, cậu ta đã trở thành một người giàu có ở Nam Phi. Kim cương”.
Vere ngừng thở vài giây. Anh nhìn Dooley với cặp mắt đầy hy vọng. “Ông không đùa cợt tôi đấy chứ, ông Dooley?”
“Không. Lần cuối cùng tôi nhìn thấy Maggie, bà Watts của anh, bà ấy vừa nhận được một bức điện từ cậu ta. Cậu ta đã trở nên giàu sụ và đang trở về nhà để biến bà ấy thành một quý bà sang trọng. Những mong cậu biết rằng, tuy tôi mừng cho bà ấy, nhưng tôi cũng vô cùng thương tiếc cho bản thân mình. Tôi đang mong bà ấy kết hôn với tôi. Bà ấy hơn tôi vài tuổi nhưng là một người đàn bà tốt, Maggie Watts, và hát rất hay, thật đó. Nhưng bà ấy sẽ không muốn lấy một thủy thủ nghèo như tôi khi cháu trai bà ấy chuẩn bị xây một lâu đài tráng lệ ở vùng quê và đưa bà ấy đến diện kiến nữ hoàng, đúng không? Tôi bỏ đi đến San Francisco trên một chiếc tàu chạy bằng hơi nước. Và khi tôi trở lại...”, cằm Dooley bạnh ra. “Khi tôi trở lại, bà ấy đã ở trong lòng đất rồi”.
“Tôi rất lấy làm tiếc”. Vere không cần phải giả vờ thông cảm. Anh biết quá rõ, nỗi đau và sự hoang mang của mất mát.
Dooley không trả lời mà đặt hai chiếc tách xuống, chiếc không bị mẻ cho Vere, và cắt nửa ổ bánh mì đen. Mặc dù lá trà đã được đun với nước, nhưng trà Dooley rót ra khó có thể sẫm màu hơn nước chanh - giống như mọi thứ bán ở phố bên dưới, lá trà cũng là đồ đã dùng rồi.
“Cám ơn ông”, Vere nói và đón lấy tách trà.
Dooley nặng nề ngồi xuống. “Cho đến tận bây giờ nguyên nhân cái chết của bà ấy luôn làm tôi băn khoăn”.
“Nếu ông không phiền, thưa ông, tôi muốn biết bà ấy chết như thế nào?”
“Bản báo cáo của nhân viên điều tra nói rằng bà ấy chết vì dùng quá nhiều chloral [1]. Ngủ và không bao giờ thức dậy nữa. Tôi cố gắng nói với tay điều tra rằng bà ấy không bao giờ làm như thế. Bà ấy là người làm việc chăm chỉ và đến tối thì ngủ như chết. Cậu nên nghe bà ấy ngáy. Tất nhiên, có nói thế cũng chẳng có ích lợi gì, hắn cứ làm như bà ấy là một phụ nữ buông thả. Tay điều tra, tên ngốc đó, nói rằng một người đàn bà sẽ cất những thứ kiểu đó đi trước khi tiếp đàn ông ở nhà, và tôi nên để nguyên nhân của cái chết cho các nhà khoa học”.
[1] HCl – axit hyđric, được dùng để làm thuốc ngủ và giảm đau.
“Ông không nghĩ đó là chloral?”
Khuôn mặt Dooley trở nên phiền muộn. “Tôi hỏi tất cả hàng xóm của bà ấy. Có hai cô gái trẻ. Họ nói bà ấy lạnh. Không phải lạnh cứng như đá mà lạnh thực sự, và vẫn còn thở khi họ tìm thấy bà ấy. Họ gọi bác sĩ, nhưng tên bác sĩ là một tên lang băm và không biết cái gì với cái gì”.
Ông ta đứng lên đi tới giá sách và lấy cuốn sách mà Vere đã nghĩ là sách cầu nguyện. Thực ra tiêu đề của nó là Thuốc độc: Tác dụng và Cách phát hiện – Sổ tay Sử dụng cho Chuyên gia và Nhà hóa học Giải tích. Dooley mở cuốn sách đến một phần đã quăn góc. “Tình trạng bà ấy đang ngủ, người lạnh dần đi là biểu hiện của chloral. Và nếu tên bác sĩ là một tay có trình độ, stricnic có thể cứu được bà ấy”.
Một tác dụng khác của stricnic là gây co giật cơ mạnh. Đây chính xác là thuốc giải độc khi dùng chloral quá liều, đồng thời hỗ trợ chức năng của tim và ngăn cơ thể hạ nhiệt quá thấp. Trong vụ Haysleigh, người bác sĩ đã sử dụng stricnic để cứu sống thành công quý bà Haysleigh, một vụ điều tra mà Vere đã cần tới rất nhiều sự giúp đỡ của quý bà Kingsley.
“Vậy rốt cuộc là chloral?”
“Đúng thế. Tôi đã thề trước quan tòa rằng bà ấy chưa bao giờ sử dụng nó lần nào. Nhưng tên nhân viên điều tra nói bà ấy có đến ba mươi gam, và thậm chí còn cho tôi xem cái chai đó”. Dooley đóng cuốn sách lại, cúi đầu. “Có lẽ tôi không hiểu bà ấy nhiều như tôi tưởng”.
“Tôi rất tiếc,” Vere nói lần nữa.
Khi anh uống một ngụm trà nóng mà gần như không có vị trà, anh đột nhiên nhớ lại một nhiệm vụ kéo dài liên quan đến một người đàn ông tên là Stephen Delaney. Delaney cũng đã chết vì uống quá liều chloral. Nhưng vì Delaney không phải là một phụ nữ nghèo có cuộc tình vụng trộm mà nhân viên điều tra thấy kinh tởm, mà là một nhà khoa học khổ hạnh - không nói đến là em trai của một giám mục - cái chết của anh ta đã nhận được rất nhiều sự quan tâm của các nhà luật pháp khi gia đình anh ta kịch liệt phản đối rằng anh ta không bao giờ cất trữ chloral.
Vụ điều tra đó đến giờ vẫn chưa có kết quả gì. Bảy năm sau, đến lúc Vere đọc tập hồ sơ, nó đã dày lên bởi một lớp bụi vì không được đụng đến trong một thập kỷ. Và ngay cả anh đã phải thừa nhận rằng, sau khi đọc xong, anh cũng không có manh mối gì để tiếp tục điều tra.
“Tôi lại thế rồi”, Dooley nói, “Nói mãi về Maggie tội nghiệp của tôi trong khi cậu muốn nghe về cha mình”.
“Nếu ông ấy là cha tôi, thì bà ấy là cô của tôi, bà cô của tôi”.
“Thì thế. Thì thế”. Dooley đặt bàn tay dày, chai sần lên cuốn sách về thuốc độc. “Nhưng tôi không thể kể thêm gì với cậu”.
“Không phải ông nói rằng ông ấy sẽ đến, gặp bà ấy và biến bà ấy trở thành một quý bà sang trọng sao?”
“Cậu ta chưa bao giờ đến. Tay thư ký đến, nhưng cậu ta thì chưa bao giờ”.
Vere phải đấu tranh để tỏ vẻ thất vọng. “Thư ký của ông ấy?”
“Đó là điều Fanny Nobb nói. Bà ấy nói một quý ông rất lịch thiệp đến gặp Maggie vài ngày trước khi bà ấy chết. Cha cậu phải ở lại Kimberley, trông mỏ kim cương, vì thế cậu ta cử thư ký đến giải quyết những việc ở London. Tay thư ký đang tìm một ngôi nhà tráng lệ cho Maggie và đưa bà ấy đi mua mọi thứ bà ấy muốn. Có lẽ đó là lý do bà ấy cần chai chloral. Phấn khích đến nỗi không ngủ được”.
Trái tim Vere đập thình thịch. Thay vì Edmund Douglas quạu cọ, ‘một quý ông rất lịch thiệp’ đã đến thay ông ta. Và sau một thời gian ngắn bà Watts đã chết vì một thứ mà người yêu bà ấy chắc chắn là bà ấy không bao giờ sử dụng.
Nếu nghi vấn của anh là đúng, nếu Douglas không phải đã vớ được mỏ kim cương nhờ vào may mắn, rồi theo chiều hướng đó, cơn đói thành công đã khiến ông ta lao vào những lĩnh vực làm ăn khác. Ông ta đang cố gắng chứng tỏ rằng mình thực sự làm ăn phát đạt mà không phải phạm tội, trừ khi ông ta không làm được.
“Sau đó cha tôi có đến dự tang lễ của bà Watts không?” Vere hỏi.
“Làm gì có đủ thời gian để trở về. Bà ấy chết vào tháng Bảy, phải chôn rất nhanh. Nhưng anh ta đã gửi tiền về để lo chi phí đám tang, Fanny nói thế”.
“Người thư ký, ông ta cũng không đến đám tang à?”
“Tôi không thể trả lời với cậu vì lúc đó tôi đang ở San Francisco, say quắc cần câu”. Người đàn ông già thở dài. “Đã vài lần tôi định đi tìm cha cậu và kể với cậu ta về Maggie của tôi. Nhưng rồi lại thôi. Tôi chưa bao giờ giúp cậu ta chuyện gì, nên không muốn cậu ta nghĩ rằng tôi đang vòi tiền”.
Vere gật đầu và đứng lên. “Cám ơn, ông Dooley”.
“Xin lỗi tôi không thể kể với cậu nhiều hơn”.
“Ông đã kể cho tôi khá nhiều rồi, thưa ông”.
Dooley đưa tay ra cho Vere. “Chúc cậu may mắn, chàng trai trẻ”.
Vere bắt bàn tay thô ráp của Dooley, nhận ra rằng đây là lúc sự ngụy trang của anh có thể bị bóc trần: Anh không có bàn tay của một người lao động. Nhưng Dooley vẫn còn trong vòng kìm kẹp của quá khứ, không hề chú ý.
Đối với Dooley, công lý sẽ không bao giờ tồn tại, ông ta đã mất người phụ nữ mình yêu. Nhưng Vere có thể vẫn chưa khám phá ra toàn bộ sự thật về chuyện gì đã xảy ra với bà Watts.
Và đó là điều anh sẽ làm.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...