Chiếc xe của Howard đang được sửa, vì thế họ phải đi tàu đến lễ tang.
“Đổi tàu,” trưởng tàu nói.
Suốt cả chặng đường đến St.Charles, nhìn đau đáu ra ngoài qua cái cửa sổ bẩn thỉu về phía những ngoại ô đang chầm chậm trôi qua, Emily thả mình với những ký ức về chị mình. Sarah ở tuổi hai mươi, duyên dáng trong bộ quần áo đi mượn và phàn nàn rằng chị ấy không quan tâm đến cuộc diễu hành của Lễ Phục sinh ngớ ngẩn; Sarah lúc mười sáu tuổi với cái hàm đeo răng, cúi gập người qua bồn rửa mỗi tối để giặt cái áo len của mình; Sarah mới mười hai; Sarah lên chín.
Vào độ tuổi chín hay mười gì đó, Sarah đã mơ tưởng nhiều về những cô gái đỏm dáng. Chị ấy có thể mua một cuốn sách ở cửa hàng bách hoá của hệ thống trung tâm thương mại Woolworth có in hình những cô gái búp bê bằng giấy, cắt những cô gái búp bê và những bộ quần áo đã được ghi chú mà không cần phải đọc hết hướng dẫn, và thiết kế cho mỗi cô gái búp bê mặc đồ theo từng cá tính riêng. Chị ấy có thể quyết được cô gái búp bê nào là xinh nhất và thịnh hành nhất (và nếu chị ấy cảm thấy váy của cô gái búp bê chưa đủ độ đẹp, chị ấy sẽ thiết kế và làm ra bộ váy đẹp hơn, sử dụng bút chì màu và màu nước để tô điểm); rồi chị ấy cuộn tất cả hình của những cô gái búp bê khác lên đến hông để các cô ấy ở tư thế ngồi ở vị trí khán giả; chị ấy sẽ giữ cho cô gái búp bê đóng vai biểu diễn luôn đứng thẳng, làm cho cô ta rung nhẹ người theo cách mà những ca sĩ thật vẫn hay làm, và hát bài “Xin chào, mùa xuân ngọt ngào” hay bài “Tìm kiếm vận may,” mà cả hai bài này chị ấy đều thuộc lời.
“Em ổn chứ, Emily?” Howard hỏi, ôm lấy tay cô.
“Vâng, em ổn.” Cô nói.
Eric trẻ trung đón họ ở sân ga, đeo kính râm phản quang và mặc một bộ vét sẫm màu rẻ tiền làm cho cổ tay cậu ta lơ lửng giống như một miếng thịt.
“Peter có ở đây không?” Cô hỏi cậu ta. “Mọi người đều đang ở đây,” cậu ta nói khi lái xe sành điệu qua nút giao thông. Chuẩn bị kinh khủng lắm đây. Điều duy nhất cần làm là phải vượt qua, bằng mọi cách phải khắc phục, và cố nhớ rằng đang có Howard Dunninger ở đây với cô. Ông ta ngồi một mình ở ghế sau của Eric, nhưng khi quay đầu nhẹ cô nhìn thấy cái quần của ông ta bằng vải flanen màu xám hiệu Oxford được là phẳng phiu, và điều đó đã an ủi cô.
“Đây sẽ không phải thực sự là một đám tang,” Eric nói ở vị trí của người lái. “Chúng con sẽ tổ chức một cái lễ nhỏ ở... dì biết đấy... ở khu mộ.”
Rồi tất cả bọn họ bước trên cỏ tươi giữa những bia mộ, dưới trời xanh, và điều đó đã loé lên trong Emily suy nghĩ rằng dù sao gia đình Wilson chắc hẳn là một gia đình quan trọng, nếu họ có một khu chôn cất riêng trong một những vùng đông dân nhất của Long Island như thế này. Cái mồ trống của Sarah được che bằng vải dầu màu xám. Cái quan tài kín của chị ấy, đang được đặt một cách kỳ cục rồi sẽ được đặt sâu vào lòng đất, trông thật nhỏ bé - chị ấy chưa bao giờ là người to lớn ngoại trừ thời bé thơ. Không xa lắm, một trong những bia mộ trông còn mới đề “Edna; người vợ thương yêu của Geoffrey,” và đó là lần đầu Emily biết rằng Edna đã chết: thật là hài hước khi Sarah không kể với cô điều này. Cô tự nhủ sẽ hỏi Sarah về việc này sau lễ tang, trước khi suy nghĩ chợt làm cho cô hiểu rằng cô sẽ không bao giờ có thể hỏi Sarah về bất kỳ điều gì được nữa. Ngượng nghịu, giống như một đứa trẻ đang tìm sự tha thứ của người cha, cô vòng tay ôm lấy Howard. Cô gần như nghe thấy giọng nói của Sarah vang lên “Không sao đâu, Emmy. Ổn thôi mà.”
Về phía bên trái họ, một người đàn ông trông ôn hòa, to lớn đứng đó rơi lệ, hay chính xác hơn là đang cố kiềm chế cái miệng của mình và chớp chớp đôi mắt đỏ hoe; ngay sát cạnh ông ta là một phụ nữ trẻ đoan trang với một đứa bé đang chập chững cùng với một cậu con trai và một cô con gái nhiều tuổi hơn bám riết lấy cái váy của cô ta. Đó chính là Tony Junior cùng với vợ và con và những đứa con của vợ mình. Mục sư cũng có ở đó, nắm chặt lấy quyển kinh trong khi họ đợi những người đưa tang khác nữa đến.
Từ xa những cánh cửa xe ô tô đóng sầm sập và chẳng bao lâu một nhóm người xuất hiện, rảo bước rất nhanh. Tony ở giữa, nói chuyện sôi nổi với những người kia. Dường như anh ta đang cười và nói cùng một lúc, và anh ta lặp lại cùng điệu bộ mà anh ta đã thể hiện cách đây nhiều năm trong khi nói với Jack Flanders về tốc độ cất cánh của máy bay phản lực Magnum (“Shoom!”) - dẹt bàn tay xoẹt qua đầu từ thái dương. Người đàn ông bên cạnh anh ta cười và gật đầu, và rồi anh ta đập vào vai Tony với nắm tay của mình. Từ cách ăn mặc và tác phong của họ - nghi thức và rắn chắc, tầng lớp thấp - Emily cho rằng những người đàn ông kia là bạn cùng làm với Tony ở nhà máy Magnum; đằng sau họ là Peter và một nhóm khác gồm những thanh niên nghiêm nghị cùng tuổi với cậu ta trông giống như những sinh viên tốt nghiệp.
Tony vẫn đang nói khi anh ta đến chỗ Emily và Howard đứng. “... thẳng tiến!” anh ta yêu cầu người đứng cạnh mình. “Không ngoái lại” - anh ta làm điệu bộ chào... - “mọi thứ đều thẳng tiến.”
“Đúng đấy, Tony,” người đàn ông nói. “Đúng là như vậy đấy.”
“Ôi, ý tôi là,” Tony nói, chớp mắt. “Xin chào Emmy.” Những chỗ trũng trên mắt của anh ta đỏ và sưng lên, như thể anh ta hẳn đã đấm vào mắt mình một cách mạnh mẽ một lúc lâu.
“Xin chào, Tony.”
Rồi anh ta nhìn Howard và bắt tay. “Rất vui được gặp ông, ông Howinger. Tôi muốn nói là, một trong những người của chúng tôi đã đến hãng luật của ông tháng trước; tôi nói với anh ta rằng ‘tôi biết người tư vấn luật ở đấy; có thể sẽ giúp ích cho anh đấy.’, Có thể ông sẽ tình cờ gặp anh ta rồi đấy; tên gã đó kỳ lắm - ồ, không, đợi đã. Cái tên đó là Union Carbide.”
“Thật ra,” Howard nói, “chúng cũng khá giống nhau thôi mà.”
Và Tony lại liếc đôi mắt đỏ bừng về phía Emily. Anh ta dường như muốn nói với cô điều gì nhưng bị thiếu từ. “Ý tôi,” anh ta nói, đưa lòng bàn tay lên cạnh mắt.
“Thẳng tiến. Không nhìn lại; không nhìn sang bên...”. Bàn tay đưa về phía trước. “Thẳng tiến.”
“Đúng đấy, Tony,” cô nói.
Khi lễ tang bắt đầu, những người đàn ông Magnum và những sinh viên tốt nghiệp kính cẩn lùi lại một khoảng cách. Peter, mắt và miệng không thể hiện cảm xúc nhưng tỏ vẻ quan tâm, để cho bố mình đứng sang một phía bên mộ và giữ anh ta thật chắc bằng cẳng tay như thể không để cho anh ta bị lộn nhào xuống. Khi giọng của mục sư cất lên những từ kinh thánh thì quai hàm của Tony mở ra để lộ những sợi nước bọt dính và rung lên giữa môi của anh ta.
“... Đất lại trở về với đất,” mục sư nói, “Cát bụi lại về với cát bụi...”, và ông ta bóp vụn đầy tay một nắm đất ở trên nắp quan tài của Sarah để thể hiện cho việc bắt đầu an táng.
Rồi, thế là mọi việc kết thúc, và họ đều bước ra khỏi khu mộ. Peter để bố mình lại với những người của Magnum; giờ thì cậu ta quay ra với Emily và Howard, nói “Hai người quay lại nhà con một chút nhé. Chúng ta sẽ đi bằng xe của con.”
Ngoại trừ việc bàn tay của cậu ta rung lên một chút khi mở khóa xe và nổ máy, cậu ta dường như kiểm soát được bản thân mình.
“Những cậu trẻ hơn con là bạn học cùng trường dòng với con,” cậu ta nói trong khi lái xe. “Con không nói họ đến; họ biết được và tự đến. Mọi người luôn làm con ngạc nhiên về lòng tốt của mọi người.”
“Mm,” Emily nói. Cô muốn hỏi “Mẹ cháu đã chết như thế nào, Peter? Hãy nói cho dì biết sự thật”, thay vào đó cô quay ra nhìn những siêu thị rực sáng và trạm xăng đi qua. “Peter,” sau đó cô nói, “Bố con ổn chứ?”
“Ôi, bố con ổn, thưa dì Emmy. Ông muốn ra ngoài hôm nay, nhưng ông không cảm thấy khỏe, ông đã ở nhà an dưỡng một thời gian, dì biết đấy.”
Căn nhà cũ kĩ thậm chí trông thê lương và gớm ghiếc hơn cô tưởng. Một trong những đứa con của vợ Tony mở cửa cho họ, cười rúc rích, và chạy đi trốn trong phòng khách ẩm mốc; phần còn lại của buổi lễ được tập hợp quanh phòng bếp vương vãi toàn đồ làm bánh sandwich và nào là những lon bia và soda... Đó là một buổi tụ họp ồn ào.
“... Và người thanh niên này,” một trong những người của Magnum nói, đập vai thân mật với Tony, “thanh niên này bắt được cả một bát cá nhỏ ngớ ngẩn, và anh ta sắp có một món hời lớn từ việc này, tôi nghĩ anh ta sắp đưa tiền tip cho cả hội đấy.”
Tony, mắt anh ta vẫn sưng, xoay người với cái đập vai cười ngất lên và đưa lon bia vào miệng.
“Con lấy một chút gì cho dì nhé, dì Emmy?” Peter hỏi.
“Không, dì cám ơn. À, mà có... cho dì ít bia, nếu con có đủ.”
“Còn ông dùng gì ạ?”
“Không, tôi cám ơn,” Howard nói. “Tôi đủ rồi.”
“Không, nhưng tôi sẽ không bao giờ quên được lần chúng ta đi chơi,” người đàn ông đến từ Magnum nói. Mặt đỏ bừng với thành công của câu chuyện câu cá, gã ta chuyển sang một câu chuyện khác mà không nhận ra rằng gã đã mất gần hết khán giả. “Những người nào luôn đi cùng với chúng ta nhỉ, Tony? Anh, tôi, Fred Slovick... tôi quên mất. Dù sao, chúng ta...”
“Có ai muốn thêm xúc xích gan không?” Tony Junior hỏi. Cậu ta đang mời sandwich. “Em có muốn phết loại mù tạt thường hay là loại dành cho trẻ con?” Vợ cậu ta, chắc là vừa mới cho bé con đi ngủ, đang cố gắng lau vết CocaCola bị đổ trên váy của đứa trẻ hay hờn dỗi năm tuổi.
“Dù sao thì hãy nói cho em biết,” một trong những sinh viên ở trường dòng, một cậu bé ưa nhìn với phát âm của người miền Nam, cười ngượng nghịu với Tony Junior. “Có một điều em không hiểu. Lúc bé sao anh lại không nện cho cậu em trai mình nhiều hơn nhỉ?”
“À, anh cũng đã cố đấy,” Tony Junior nói trong lúc phết mayonnaise lên bánh mỳ đen. “Anh đã thử nhiều lần, nhưng thật chẳng dễ chút nào. Ý anh là cậu ta tuy bé nhưng rắn chắc và dẻo dai.”
“...Vì thế ý tôi là ‘tôi đã kiếm được năm đồng xu,’” người đàn ông Magnum đang hét lên. “Tôi kiếm được năm đồng xu trong khi cả ngày Wilson chẳng kiếm được gì.”
“Ôi, Chúa ơi, Marty,” Tony nói, cười và lắc đầu với sự vui sướng quá khích. “Anh sẽ kể mãi chuyện này cho đến tận lúc tất cả mọi người chúng ta chết à?”
Peter đi trả lời điện thoại; khi cậu ta quay lại cậu ta nói “Đấy là điện thoại của bố.” vẫn còn hưng phấn với phần kết câu chuyện của Marty (với câu kết là anh ta bắt được nhiều cá hơn tất cả mọi người ở trên thuyền ngày hôm đó), Tony nheo mắt qua ly whiskey và nói “Ai đấy, Peter?”
“Sĩ quan Ryan. Bố biết mà; ở đồn cảnh sát.”
Tony uống ngụm whiskey và nhăn mặt vì vị đắng ngọt. “Cảnh sát,” anh ta thì thầm, chuẩn bị đi. “Thằng cảnh sát chết tiệt nghĩ là tôi đã giết vợ.”
“Thôi mà bố,” Peter nói xoa dịu khi cậu ta theo cha ra khỏi phòng. “Bố hiểu vấn đề mà. Con đã nói với bố là đó chỉ là điều tra thông thường thôi.”
Cuộc nói chuyện với sĩ quan Ryan không kéo dài; khi anh ta quay trở lại bàn tiệc anh ta uống thêm nữa - hai chai whiskey hiện giờ đang được chuyền quanh bàn - những tiếng hò hét và tiếng cười kéo dài mãi đến tận chiều muộn.
Bóng nắng xanh thẫm trải dài trên ngôi nhà khi Emily đứng lên đi về phía phòng tắm. Trên lối đi hành lang cô trượt chân và suýt ngã; trong lúc tự lấy lại thăng bằng cô nhận thấy cô đã va vào một cái tủ nhỏ đựng những tờ tạp chí cũ Tin tức hàng ngày được xếp thành đống dày ba phút. Lúc quay trở lại cô lướt qua một cái khung ảnh, đấy là bức ảnh chụp hình của Tony và Sarah vào Lễ Phục sinh ngày Chủ nhật năm 1941. Bức cảnh bị treo lệch đi như thể vì bị một vài cơn gió thổi mạnh làm rung chuyển bức tường, cẩn thận, với những ngón tay run rẩy, cô với lên bức ảnh và để cho nó được thẳng lại.
Đèn bắt đầu được bật lên để chống chọi lại với bóng tối của chiều tà đang buông xuống.
“... Không, nhưng những gì mà tôi muốn biết,” người đàn ông Magnum nói với Tony Junior, “những gì mà tôi muốn biết là công việc nào cháu có thể làm cho tôi?”
“Cách tốt nhất, Marty,” Tony Junior khẳng định với gã ta. “Chú có thể hỏi bất kỳ một ai: chúng cháu là những thợ kỹ thuật tốt nhất ở bộ phận này của hạt Suffolk.”
“Vì, ý tôi, theo quan điểm của tôi,” Marty khăng khăng, “theo quan điểm của tôi, đó là - cháu biết đấy - sự cân nhắc duy nhất.”
“Mẹ,” một trong những đứa trẻ khóc nhai nhải. “Mẹ, chúng ta về nhà đi mẹ?”
“Ý chú là, đến uống một chút gì đi các cháu,” Tony nói với nhóm sinh viên trường dòng còn đang ngập ngừng. “Các cháu chưa bao giờ uống, đúng không?”
“Cám ơn chú,” một cậu trong nhóm nói, “một chút rượu và nước.”
“Em ổn chứ, Emily?” Howard hỏi, nhìn lên trong lúc nói chuyện với một người đàn ông khác trong nhóm người Magnum.
“Em ổn. Em lấy chút gì cho anh nhé?”
“Anh có rồi, cám ơn em.”
Trong suốt cả buổi Eric chỉ đứng một mình tựa người vào khung cửa phòng bếp, im lặng và khó hiểu dưới lớp kính phản quang, giống như một bảo vệ được thuê để giữ cho bữa tiệc không bị vượt tầm kiểm soát.
Vợ của Tony Junior đưa trẻ về nhà mà không nói lời tạm biệt với ai hết; không lâu sau nhóm sinh viên trường dòng ra về, và rồi đến nhóm Magnum nhưng rồi Marty lại khơi mào.
“... Nghe này Tony,” Marty nói. “Anh sẽ phải ăn chứ? Chúng ta qua chỗ Manny dùng bít tết đi.”
Và trong những chiếc xe, sau một lúc cãi cọ do ngà ngà say về việc ai sẽ ngồi với ai, những kẻ khóc thuê rồ máy về phía đường cao tốc đi đến một nhà hàng theo phong cách California tràn ngập ánh sáng có tên gọi Nhà hàng thịt sườn của Manny Feldon.
Bên trong chỗ ngồi tối đến nỗi mà họ chỉ nhìn thấy mặt nhau qua bàn khi họ cụng ly cocktail bằng những chiếc cốc nặng nề. Peter không say rượu: cậu ta ngồi đằng sau cha mình, như thể bữa tiệc liên hoan này, giống như lúc ở khu mộ, có thể sẽ cần sự trợ giúp của cậu ta. Marty và Tony Junior lại đắm chìm trong nói chuyện về công việc. Không thay thế được tay nghề ở bất kỳ một bộ phận nào, Marty nói, trong lúc Tony Junior gật đầu chậm rãi và càng chứng tỏ rằng cậu ta không đồng ý. “Ý tôi là ở tất cả các bộ phận, dù cho là bộ phận cơ khí hay mộc hay sản xuất giầy hay bất kỳ một bộ phận nào mà cậu đặt tên. Có phải vậy không?”
Emily nắm chặt lấy thành bàn bằng cả hai tay vì chỉ có mỗi nó đang trở nên một khối thống nhất duy nhất: còn tất cả những thứ khác đều đang chao đảo. Bên cạnh cô, sâu trong chiếc ghế tựa vào tường - và bức tường cũng trở nên lung lay - là Howard đang nốc đủ rượu để chuẩn bị, có thể đây là đêm thứ ba hay tư gì đó, kể từ khi cô biết ông ta, cho việc đi ngủ trong say khướt.
Eric không ngồi cạnh ai cả, và cậu ta là người duy nhất ăn ngấu nghiến khi những món bít tết được mang đến. Cậu ta ăn với lòng hăng say của một người bị chết đói, cong người qua đĩa như thể muốn chắc rằng đĩa thức ăn sẽ không bị mang đi mất.
“... Không, nhưng tôi đang về già rồi,” Marty vẫn nói, “... và lưu ý với cậu rằng, tôi nhận ra có thể tôi chỉ còn lại nhiều nhất là mười lăm năm... càng về già tôi lại càng phải dừng lại và suy nghĩ. Ý tôi là cậu thấy đấy, bọn trẻ bây giờ chạy rông với tóc dài lượt thượt, với những cái quần jeans nhếch nhác và những suy nghĩ điên rồ, và chúng thì hiểu biết những gì nào? Tôi nói có đúng không? Ý tôi là liệu chúng thì biết được gì?”
Cuối cùng thì Howard cũng đủ tỉnh táo để rút ra được tờ lịch trình khỏi ví, xem kỹ lịch trình dưới ánh sáng lập lòe của chiếc bật lửa và xác định rằng họ chỉ có mười lăm phút còn lại để bắt kịp giờ tàu.
“Hãy giữ liên lạc nhé, dì Emmy,” Peter nói, cao giọng chào họ, và cậu ta bắt tay Howard. “Cám ơn ông đã đến.”
Tony cố gắng ra khỏi ghế, đi lảo đảo. Anh ta lẩm bẩm cái gì đó không thể nghe thấy được với Howard, lau miệng của mình và trông có vẻ do dự không biết liệu có nên hôn Emmy vào má không. Thay vào đó anh ta nắm tay cô trong giây lát, không hẳn hoàn toàn nhìn vào mắt cô; anh ta để cho họ đi, chầm chậm cho tay lên thái dương và đưa về đằng trước. “Thẳng tiến nhé.” Anh ta nói.
Phải mất một thời gian dài Emily mới nhận ra là Sarah đã chết. Thỉnh thoảng, chợt tỉnh dậy với giấc mơ thời bé con được lấp đầy bởi khuôn mặt của Sarah và giọng nói của Sarah, cô sẵn sàng đi ngắm khuôn mặt của mình trước gương ở phòng tắm sáng rực cho đến tận khi cô khẳng định được đấy vẫn là khuôn mặt của em gái Sarah, và rằng trông nó không già. “Howard!”, một lần cô nói khi họ nằm trên giường, trong lúc sắp ngủ. “ông có biết không? Em thật sự ước rằng ông đã từng gặp Sarah trong những ngày xa xưa, trước khi mọi thứ trở nên tan vỡ như thế này. Chị ấy thật đáng yêu.”
“Mm,” ông ta nói.
“Đáng yêu, tươi sáng và đầy sức sống... và nghe có vẻ ngớ ngẩn, nhưng em nghĩ giá mà ông biết chị ấy thì ông sẽ hiểu em hơn.”
“Ôi, tôi cũng không biết nữa. Tôi nghĩ rằng tôi khá là hiểu em đấy chứ.”
“Không, ông không hiểu gì,” cô nói.
“Thật thế á?”
“Ông thật sự không hiểu. Hầu như chúng ta chưa bao giờ nói chuyện.”
“Em đùa đấy à? Chúng ta luôn nói chuyện với nhau trong mọi lúc, Emily.”
“Ông chưa bao giờ muốn nghe chuyện về thời thơ ấu của em hay bất kỳ chuyện gì.”
“Có chứ. Tôi biết hết về thời thơ ấu của em. Ngoài ra, thời thơ ấu của mọi người hầu như đều giống nhau.”
“Sao ông có thể nói như vậy được? Chỉ có người vô tình và trì độn nhất trên thế gian này mới nói ra điều như vậy.”
“Được rồi, được rồi, được rồi,” ông ta nói đầy ngái ngủ. “Hãy kể cho tôi nghe về thời thơ ấu của em nào. Hãy kể thật não nuột vào nhé.”
“Ugh!” Và cô xoay người cách xa ông ta. “Ông thật không thể chấp nhận được. Ông đúng là một tên người vượn Neanđectan.”
“Mm.”
Một lần khác, khi họ quay trở về vào lúc chiều tà trong chuyến đi dã ngoại ở ngoại ô, cô nói “Làm thế nào ông có thể chắc rằng đó là bệnh xơ gan, Howard?”
“Tôi không chắc; tôi chỉ muốn nói là nó có vẻ như vậy, bằng cách xem xét việc cô ấy uống rượu.”
“Nhưng rồi chính cái nghĩa ám muội khi nói ‘mùa thu chị ấy dọn về nhà.’ Và rồi cảnh sát đến, và Tony nói ‘Cảnh sát nghĩ là tôi giết vợ.’ Em cá là hắn ta đã làm thế, Howard. Em cá là hắn ta đã nhảy xổ vào trong một lần say khướt và đã đánh chị ấy với cái ghế hay là thứ gì đó.”
“Họ không bắt anh ta, có phải vậy không? Nếu họ có bằng chứng, chắc hẳn là họ đã bắt anh ấy.”
“Thật ra, nhưng anh ta và bọn trẻ có thể che đậy bằng chứng.”
“Cưng à, chúng ta đã nói về chuyện này hàng trăm lần rồi. Đó chỉ là một trong vô vàn thứ mà em sẽ không bao giờ biết được. Cuộc sống đầy rẫy những việc xảy ra như vậy.”
Đi qua ba hay bốn khu nhà thô sơ, và rồi một số khu ngoại ô phát triển, và rồi bắt đầu đi đến Bronx(1); họ đi suốt đến cầu Henry Hudson(2) trước khi cô nói “Ông đúng rồi.”
“Đúng về điều gì?”
“Cuộc sống đầy rẫy những việc như thế này.”
Cũng có những điều mà sẽ chẳng bao giờ cô biết được về Howard, tuy vậy cô vẫn cũng có thể yêu ông ta đến nhường nào. Thỉnh thoảng dường như cô chỉ vừa mới biết ông ta vậy.
Công việc ở cơ quan dường như không được tốt lắm. Hannah Baldwin ít mời Emily đi ăn trưa hơn - bà ta mời những người phụ nữ khác trẻ hơn cùng phòng với Emily đi ăn trưa - và bà ta ít gọi cô là “cưng” hơn, và cũng ít đến phòng làm việc riêng của cô để đặt cái hông chắc nịch lên cạnh bàn làm việc và lãng phí hàng giờ đồng hồ lảm nhảm những điều vô nghĩa vào giữa ngày làm việc. Bà ta bắt đầu dành cho Emily cái nhìn mà cô mô tả với Howard là “cái nhìn kỳ lạ” - một cái nhìn thăm dò, không thân thiện - và bà ta tìm ra đủ mọi thứ để bình luận về cách mà Emily thực hiện công việc.
“Bản viết này nông quá,” bà ta nói một lần về một công việc mà Emily đã phải làm việc nhiều ngày. “Nó cứ đuồn đuỗn. Chẳng nhẽ không có cách nào để hà hơi cuộc sống vào trong đó được à?”
Khi tên của một nhà nhập khẩu người Thụy Điển được in ra trong bản in bị mất dấu trên một trong những nguyên âm, Hannah đã chỉ trích nặng nề rằng đó chính là lỗi của Emily. Và khi Emily để cho một quảng cáo của National Carbon đi vào thực hiện mà lại không phát hiện ra cụm từ “đang chờ được công nhận đặc quyền chế tạo” không có đằng sau từ “Tynol,” Hannah đã cư xử như thể đang có một tai họa vậy. “Chẳng lẽ cô không hề biết về tư cách pháp lý trong một việc như thế này hay sao?” Bà ta hạch sách. “Hannah, tôi chắc là sẽ ổn thôi,” Emily nói. “Tôi biết nhà tư vấn luật cho National Carbon mà.”
Hannah chớp mắt và nheo lại. “Cô ‘biết’ ông ta? Cô có ý gì, cô ‘biết’ ông ta?”
Emily cảm thấy máu đang chảy trên mặt mình. “Ý tôi là chúng tôi là những người bạn.”
Ngập ngừng trong giây lát. “Thế à,” cuối cùng Hannah nói, “thật là tốt khi là những người bạn, nhưng điều đó chẳng có nghĩa gì trong công việc kinh doanh.”
Tối đó Emily nói với Howard về chuyện xảy ra, vào bữa tối, và ông ta nói “Nghe có vẻ như bà ta sắp mãn kinh vậy. Em sẽ chẳng làm được gì với chuyện này đâu.” Ông ta thái một lát bít tết và nhai thật kỹ trước khi nuốt. Rồi ông ta nói ‘Tại sao em không bỏ cái công việc chết tiệt ấy đi, Emily? Em không cần phải làm việc. Chúng ta không cần tiền.”
“Không, không,” cô nói thật nhanh. “Nó không tồi tệ đến như thế; em chưa chuẩn bị tinh thần cho việc này.” Nhưng sau đó, khi đứng ở bồn rửa để rửa bát trong lúc ông ta đang tập trung vào đồ uống sau bữa tối, cô cảm thấy muốn được khóc. Cô muốn đi đến chỗ ông ta và khóc một cách duyên dáng vào áo của ông ta. Ông ta đã nói “Chúng ta không cần tiền,” như thể họ đã lấy nhau vậy.
Một tối, một năm sau cái chết của Sarah, một giọng phụ nữ mệt mỏi tự đồng cảm khi bệnh viện bang Central Islip gọi đến thông báo “Chúng tôi lấy làm tiếc thông báo với chị về cái chết của Esther Grimes.”
“Ôi,” Emily nói. “Tôi hiểu rồi. Thế à, chị có thể nói cho tôi biết thủ tục là như thế nào không?”
“Thủ tục á?”
“Ý tôi là... cô biết đấy... về việc sắp xếp lễ tang.”
“Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào cô, cô Grimes.”
“Tôi biết là điều đó phụ thuộc vào tôi. Tất cả những điều tôi muốn nói là...”
“Nếu cô muốn thực hiện một lễ tang cá nhân, chúng tôi có thể gợi ý cho cô vô vàn nhà tang lễ trong khu vực này.”
“Chị hãy gợi ý cho tôi một nhà tang lễ, có được không?”
“Chỉ dẫn của chúng tôi là phải gợi ỷ mọi nhà tang lễ.”
“Được thôi, đợi đã... để tôi lấy cái bút chì.” Và khi cô đi qua ghế của Howard từ chỗ để điện thoại cô nói “Mẹ em mất rồi. Ông có biết gì về việc đó không?”
Khi việc đã được thống nhất Howard nói “Emily! Em có muốn tôi cùng với em đi đến chỗ đó vào ngày mai không?”
“Dạ, thôi ạ,” cô nói với ông ta. “Đó chỉ là một lễ tang nhỏ, khó chịu thôi, ở một nơi, mà gọi là gì nhỉ, nhà xác. Em có thể giải quyết được công việc một mình.”
Cả ba đứa cháu của Pookie đang đợi ở dưới hàng cây ở Central Islip khi taxi của Emily xuất hiện phía bên ngoài nhà xác buổi chiều hôm sau. Họ là những người duy nhất có mặt ở đó. Peter để anh em mình đứng đó và đi về phía cô giúp cô ra khỏi xe, mỉm cười. “Con rất vui lại được gặp dì, dì Emmy,” cậu ta nói. Cậu ta đang mặc áo mục sư; cậu ta đã được phong chức. “Thường thì họ đưa một mục sư của bệnh viện đến để làm lễ,” cậu ta nói, “nhưng nếu con hỏi liệu con có thể làm việc đó không và họ đồng ý.”
“Thế à, thế thì... tốt rồi, Peter,” cô nói. “Thế thì ổn rồi.”
Nhà thờ tối lờ mờ bốc mùi của bụi và véc ni. Emily, Eric và Tony Junior ngồi ở hàng ghế dài phía trên, đối diện với án thờ nơi quan tài đã được đóng nắp của Pookie để giữa hai giá đỡ nến. Rồi Peter đi vào từ cửa bên, mặc một loại áo choàng mục sư của nhà thờ Tân giáo, và bắt đầu đọc to từ quyển kinh cầu nguyện.
“... Chúng ta không mang gì đến cho thế giới này, và chắc chắn là chúng ta cũng không mang đi theo mình được thứ gì. Chúa đã ban tặng, và Chúa cũng lấy đi; hãy ban phúc cho con chiên mang tên của Ngài...”
Khi buổi lễ kết thúc, Emily đi đến phòng hành chính và đến quầy thu ngân, nơi có một người đàn ông đưa cho cô một hóa đơn đã được ghi thành từng khoản và nhận séc thanh toán của cô, sau khi hỏi xem bằng lái xe của cô. “Chị có thể đi cùng thi hài đến đài hoá thân,” anh ta nói, “nhưng tôi không khuyên chị làm điều đó. Không có gì để xem cả.”
“Xin cảm ơn,” cô nói, nhớ lại hai ống khói ở phía đường chân trời của bệnh viện Central Islip.
“Xin cảm ơn.”
Ba chàng trai nhà Wilson đang đợi cô. “Dì Emmy!” Peter nói. “Con nghĩ là cha con muốn gặp dì. Con có thể đưa dì đến đó, chỉ vài phút thôi, có được không?”
“Thế à, dì - được thôi.”
“Thế còn các con thì sao?”
Nhưng hoá ra là cả hai anh em kia đều quay về đi làm, và sau khi họ lẩm bẩm chào, những chiếc xe của họ rồ máy đi theo những hướng khác nhau.
“Bố con đã tái hôn,” Peter nói khi cậu ta lái xe đi thẳng trên con đường dài. “Dì có biết không ạ?”
“Không, dì không biết.”
“Đó là điều tốt nhất trên đời này dành cho ông. Ông đã cưới một người phụ nữ rất dễ thương đang làm chủ nhà hàng ở St.Charles, một goá phụ. Họ đã làm bạn với nhau trong nhiều năm.”
“Dì hiểu rồi. Và họ có sống ở...”
“Không ạ. Great Hedges đã được bán từ lâu rồi. Ông bán cho một người làm nghề triển khai dự án chẳng bao lâu sau cái chết của mẹ con. Không có gì ở đó bây giờ ngoại trừ bụi và xe ủi đất. Không, ông chuyển đến sống cùng với người vợ mới - tên cô ta là Vera - trong một căn hộ phía bên trên nhà hàng. Nó rất dễ chịu. Và ông cũng đã về hưu, không làm ở Magnum nữa - dì có biết việc đó không ạ?”
“Không.”
“Thật ra, ông đã bị một tai nạn rất nặng cách đây sáu tháng, bị chấn thương rất nặng và bị vỡ bả vai, vì thế ông xin về hưu sớm. Hiện giờ ông đang phục hồi sức khỏe và làm những việc nhẹ; con nghĩ khi ông lại có thể đi làm lại, ông sẽ trở thành một đối tác công việc với Vera trong việc kinh doanh nhà hàng.”
“Dì hiểu rồi.” Sau một lúc thì chợt lóe lên trong đầu cô muốn biết về Geoffrey già. “Ông nội con thế nào rồi, Peter?”
“Ôi, ông con mất rồi, dì Emmy. Ông con mất năm ngoái.”
“Thế à, dì rất lấy làm tiếc.”
Những cánh đồng hai bên đường dẫn đến những khu dân cư đông đúc, và những trung tâm thương mại với hàng mẫu những bãi đỗ xe. “Hãy kể cho dì nghe về con nào, Peter,” cô nói. “Bây giờ con ở đâu?”
“Con may mắn có được một công việc thú vị,” cậu ta nói, nhìn lướt qua tay lái. “Con là giáo sĩ trợ lý ở trường Edwards, ở phía trên của New Hampshire. Dì đã nghe nói đến trường Edwards chưa ạ?”
“Dì đã nghe đến rồi.”
“Con không thể đòi hỏi được một vị trí tốt hơn ở công việc đầu tiên,” cậu ta nói tiếp.
“Sếp của con là một người đàn ông dễ chịu, và dường như bọn con suy nghĩ giống nhau. Công việc rất thử thách và rất phấn chấn. Thêm nữa, con thích làm việc với thanh niên.”
“Mm,” cô nói. “Thế à, thế thì tốt rồi. Dì chúc mừng nhé.”
“Thế còn dì thì sao rồi ạ, dì Emmy?”
“À, với dì thì mọi việc vẫn thế.”
Ngừng một lúc, rồi trầm ngâm nhìn về con đường phía trước, cậu ta nói “Dì có biết không? Con luôn ngưỡng mộ dì, dì Emmy ạ. Mẹ con thường nói ‘Emmy luôn có những suy nghĩ tự do.’ Con không hiểu điều đó có nghĩa gì khi con còn bé, vì thế con đã hỏi mẹ con một lần. Và mẹ con trả lời ‘Emmy không quan tâm đến việc mọi người nghĩ gì. Dì làm chủ bản thân và đi theo con đường của riêng mình.’”
Cổ họng của Emily dường như bị nghẹn lại. Khi cô cảm thấy tự tin để nói, cô nói “Mẹ con thật sự đã nói như vậy á?”
“Theo đúng như trí nhớ của con, đó chính là điều mẹ con đã nói.”
Giờ thì họ đi qua những con phố ở khu ngoại ô dân cư dày đặc đến nỗi cậu ta phải nhấn phanh dừng lại ở đèn giao thông. “Không còn xa nữa đâu ạ,” cậu ta nói. “Ở ngay góc rẽ tiếp theo... Đến nơi rồi ạ”
Biển hiệu của nhà hàng ghi BÍT TẾT, TÔM HÙM và COCKTAILS nhưng nó lại có vẻ ảm đạm: sơn đã bị phai ở cái ván che màu trắng ở phía đằng trước, và những cửa sổ thì quá bé. Nó là một nơi mà làm cho một người đàn ông và một người đàn bà đang đói ngồi trong ô tô sẽ phải dành hàng nhiều phút để cân nhắc. (“Em nghĩ gì?”, “Thật ra, em cũng không biết nữa; trông nó thật kinh khủng. Có thể đằng kia sẽ có nơi khác khá hơn.”, “Em à, anh đã nói với em rồi: sẽ không có một thứ gì khác ở những dặm sắp tới đâu.”, “Vậy thì, chẳng còn cách nào khác, vậy thôi.”) Peter đỗ xe ở chỗ đậu rải sỏi có cỏ mọc và dẫn Emily đi quanh phía sau tòa nhà đến một chiếc cầu thang bằng gỗ để đi đến tầng hai.
“Bố à!”, cậu ta gọi, “Bố có nhà không ạ?” Và kia là Tony Wilson, trông giống như một Laurence Olivier hoang mang, đang về già khi anh ta mở cánh cửa mỏng mảnh và mời mọi người vào nhà. “Mời vào,” anh ta nói. “Xin chào Emmy.”
Cái căn hộ bé nhỏ trông tạm bợ - nó gợi Emily nhớ về căn hộ cũ kĩ của Pookie phía trên garage ở Great Hedges - và nó chứa quá nhiều đồ. Hai cụ tổ của Tony nhìn chằm chằm từ phía những bức tường lộn xộn; những bức tranh khác được đóng khung bằng những chiếc khung tranh được mua ở cửa hàng tạp hoá bán giá rẻ. Vera đi lăng xăng từ dưới bếp lên, cười toe toét, một người phụ nữ xương to sôi nổi ở độ tuổi bốn mươi, đang mặc chiếc quần soóc.
“Tôi mong rằng cô sẽ không nghĩ chân tôi luôn to như thế này,” chị ta nói. “Tôi bị dị ứng nặng, nên thỉnh thoảng chúng làm cho chân tôi sưng tấy.” Và chị ta ấn tay mình vào một bên đùi đang run lấy bẩy tỏ ý bị sưng. “Chị ngồi đi. Peter, chuyển cái hộp ra khỏi cái ghế xanh để dì cháu ngồi.”
“Xin cảm ơn,” Emily nói.
“Chúng tôi rất lấy làm tiếc về tin của mẹ chị,” Vera hạ thấp giọng nói, ngồi bên cạnh Tony trong chiếc ghế sofa nhỏ mà Emily nhận ra là nó từ nhà cũ. “Chúng ta chỉ có một mẹ thôi mà.”
“Thật ra, mẹ tôi đã bị... rất ốm trong một thời gian dài.”
“Tôi biết mà. Mẹ tôi cũng bị như vậy. Năm năm ra vào bệnh viện, với những cơn đau liên miên. Ung thư lá lách. Chồng trước của tôi, cũng... ung thư ruột. Anh ấy chết trong đau đớn. Và chuyện này nữa.” Chị ta huých mạnh tay Tony. “Chúa ơi, anh ấy đã làm cho tôi sợ đến mức nào. Peter đã nói với chị về tai nạn chưa? ôi, tôi quên mất không mời chị thứ gì. Chị uống cà phê nhé? Hay chè?”
“Thôi, xin cảm ơn chị. Tôi đủ rồi.”
“Dù sao thì chị cũng thử bánh đi, nó ngon đấy.” Chị ta chỉ cái đĩa đựng bánh quy sô-cô-la ở trên bàn cà phê. Peter với lấy một cái, nhai trệu trạo trong lúc nói. “Dù sao thì,” chị ta nói, “Đội tuần tra trên đường cao tốc gọi tôi vào lúc năm giờ ba mươi chiều, và tôi vội đến bệnh viện trước khi họ làm gì anh ấy. Họ để cho anh ấy nằm trên một cái cáng ở phòng cấp cứu, bất tỉnh, máu me đầy mặt, và thề có Chúa tôi nghĩ rằng anh ấy đã chết. Não của anh ấy đang sắp lòi ra ngoài.”
“Thôi mà, Vera,” Peter nói với đầy mồm bánh quy.
Chị ta quay sang cậu, đôi mắt tròn vô tội và giận dữ. “Cháu không tin cô à? Cháu không tin cô à? Thề có Chúa. Thề có Chúa, Peter, não của người đàn ông này đang lộ ra ngoài tóc.”
Peter nuốt bánh. “Thật ra,” cậu ta nói, “ít nhất là họ cũng đã giải quyết cấp cứu được bố con.” Và cậu quay ra với cha mình. “Bố, đây là đoạn mà con đã kể với bố, đoạn mà con nghĩ bố có thể sẽ thích đọc.” Từ cái ví ở phía bên trong áo choàng cậu ta lôi ra một tờ quảng cáo đã được cuộn lại, được in đẹp trên loại giấy màu nâu vàng nhạt đậm, với tiêu ngữ theo kiểu Anh cổ và dòng chữ “Đại học Edwards” là một phần của tiêu đề.
“Cái gì thế này?” Vera gặng hỏi, vẫn tỏ vẻ giận dữ về việc cậu ta không tin não dính trên tóc. “Một bài thuyết pháp hay là gì vậy?”
“Thôi nào, Vera,” Peter nói. “Cô biết là cháu chưa bao giờ đưa cô xem một bài thuyết pháp nào. Nó chỉ là một tờ tin mà nhà thờ phát hành.”
“Mm,” Tony nói. Anh ta lấy cái kính ra từ túi áo sơ mi, đeo kính vào và đọc lướt bài báo với cặp kính của mình, nháy mắt liên hồi.
“Bài viết đầu tiên của sếp con,” Peter giải thích. “Có thể bố sẽ thấy thú vị khi đọc bài viết này. Phần viết của con nằm ở trang bên trong.”
“Mm.” Tony cẩn thận để tờ tin vào túi áo, cùng với cái kính và bao thuốc lá, và nói “Rất tốt, Peter.”
“Ôi, Peter này,” Vera giãi bày với Emily. “Chẳng phải là cậu ta đã quá được chiều sao? Chẳng phải cậu ta sẽ làm cho một vài cô gái được hạnh phúc một ngày nào đó sao?”
“Cậu ta chắc là sẽ như vậy rồi.”
“Tony Junior và tôi có vướng một số chuyện,” chị ta nói, “và Eric - thật ra tôi không biết gì về Eric; nhưng với Peter này... Cậu ta thật sự là quá được chiều. Chỉ có mình cháu mới hiểu được, phải vậy không? Họ đang làm hư cậu bé, tất cả những người phụ nữ ở trường Edward.
Họ đang làm hư hỏng cậu bé. Họ dọn thức ăn cho cậu ta; họ dọn giường cho cậu ta; họ giặt quần áo cho cậu ta...”
“Thôi mà, Vera,” Peter nói, và rồi cậu xem đồng hồ. “Con nghĩ chúng ta nên đi thôi, dì Emmy, nếu chúng ta muốn kịp tàu.”
Một lần ở mùa đông năm sau, Howard lại phải đến Los Angeles - đó là chuyến đi thứ bảy hay tám gì đó kể từ ngày cô biết ông ta.
“Tôi không cần tất cả những đồ nặng này,” ông ta nói khi cô đang giúp ông chuẩn bị đồ. “Em không biết được là ở đó ấm đến như thế nào đâu.”
“Ôi,” cô nói. “À, đúng rồi, em quên mất.”
Và rồi cô để cho ông ta tự chuẩn bị nốt đồ của mình.
Cô đi vào bếp để pha cà phê, nhưng lại thay đổi ý định và làm cho mình một ly. Những chuyến đi như thế này thật luôn khó chịu. Cô không định hỏi ông ta xem liệu ông ta có đến gặp Linda không: lần trước cô đã hỏi ông ta về điều này, ở chuyến đi thứ ba hay bốn gì đó, nó gần như mang lại một cuộc cãi vã. Ngoài ra, cô tự khẳng định với mình, khi chất cồn làm nóng mạch máu của cô, rằng thật sự rất không có khả năng đó xảy ra. Ông ta và Linda đã ly thân với nhau gần được sáu năm rồi - sáu năm, vì Chúa - và mặc dầu thỉnh thoảng ông ta vẫn nhắc đến cô ta theo cách khùng điên cũ kĩ, rõ ràng rằng cho đến giờ cuộc hôn nhân đó đã bị hủy bỏ.
Nhưng điều đó lại âm ỉ một câu hỏi đã giày vò cô ngay từ lúc đầu, đe doạ cô không biết bao nhiều lần, làm cho cô muốn nhảy xổ vào ông ta để kèo nhèo có được một câu trả lời: nếu hôn nhân đã tan vỡ, sao họ lại không ly dị?
“Có chuyện gì thế?” Howard nói, mỉm cười ở cửa bếp. “Em đang uống một mình à?”
“Vâng, em luôn uống một mình khi ông có những chuyến đi như thế này. Em đang cố làm quen với việc ông sẽ biến mất ở California mãi mãi. Hãy cho em một vài năm và em sẽ là một trong những người phụ nữ già nua gớm ghiếc mà ông sẽ nhìn thấy trên đường với bốn túi hàng, nhặt những lon rác và tự nói một mình.”
“Thôi đi, Emily. Em giận tôi à? Em giận tôi về việc gì?”
“Đương nhiên là em không giận ông đâu. Ông có muốn uống không?”
Chuyến đi California lần đó đã không có một lý do nào làm cho cô phải lo lắng.
Ông ta gọi cô đến bốn lần trong lúc ông ta đi vắng, và lần thứ tư, thì ông ta nói ông ta mệt mỏi, cô nói “Nghe này, Howard: ông đừng đi taxi về nhà sau suốt một chặng đường đi công tác mệt mỏi đến như vậy. Em sẽ lái xe đến đón ông.”
“Không, không,” ông ta nói. “Em không cần phải làm thế.”
“Em biết là em không phải làm như vậy. Chỉ là việc em thích làm thôi.”
Ngập ngừng trong giây lát, dường như lúc đó ông ta suy nghĩ lắm. Rồi, ông ta nói “Được rồi. Em thật là một người đáng yêu, Emily.”
Cô không thường xuyên lái chiếc xe không ồn ào và to này của ông ta, đặc biệt là vào ban đêm và trong mưa. Công suất máy và dung tích xe làm cho cô sợ - cô thường xuyên nhấn phanh nhiều hơn cần thiết, làm cho những người lái xe sau cô phải bấm còi - nhưng cô thích thú cái cảm giác choáng ngợp đó và kiểu màu xanh thẫm của cái mui xe rộng được đọng từng giọt nước mưa rung rinh.
Howard trông u sầu và mệt lử khi ông ta xuất hiện từ thang máy bay - trông ông ta già - nhưng khi ông ta nhìn thấy bóng cô, khuôn mặt ông ta trở nên đỏ bừng hoàn toàn như trẻ con vậy. “Khỉ thật,” ông ta nói. “Thật vui khi nhìn thấy em chờ tôi ở đây.”
Chưa đầy một năm sau đó ông ta lại đi California - và lần này sự vắng mặt của ông ta được lấp đầy bởi sự im lặng và khiếp sợ. Thậm chí cô không thể lên kế hoạch đón ông ta bằng xe vì cô không chắc ngày nào hay đêm nào ông ta sẽ về nhà, một mình trơ trọi trong chuyến bay nào. Tất cả những gì cô có thể làm là chờ đợi - cố gắng nhượng bộ với thái độ cáu kỉnh của Hannah Baldwin trong những giờ làm, cố gắng kìm nén sự ham muốn được uống một mình cho đến lúc buồn ngủ trong những buổi tối.
Một lần trong khoảng thời gian đó, quay về văn phòng sau khi ăn trưa, cô nhìn thấy khuôn mặt của một người phụ nữ nóng nảy, phờ phạc - một khuôn mặt mà bất cứ ai đều có thể nói đang về già, nặng nề (đôi mắt thâm quầng và có nếp nhăn; một cái miệng luôn tự thương xót mình, yếu đuối) - và ngỡ ngàng nhận thấy đó là chính mình, một cách vô thức đã được phản chiếu trong chiếc cửa sổ làm bằng kính. Đêm đó, một mình trước gương trong phòng tắm, cô cố gắng mọi cách để làm cho khuôn mặt mình trông khá hơn: nheo mắt trong nụ cười huyền ảo và rồi trong một nụ cười rộng hơn đầy tươi vui trong sáng, mắm môi mở miệng ở nhiều cấp độ khác nhau, sử dụng một tay cầm gương để phán đoán sự thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau, thử nghiệm một cách không mệt mỏi với những cách mới để làm tăng hình thể qua việc để những kiểu tóc khác nhau. Rồi, trước toàn bộ chiều dài của gương ở hành lang, cô cởi bỏ quần áo và nhìn chăm chú cơ thể mình qua những ngọn đèn sáng. Cái bụng của cô phải được ép phẳng trước khi để trông được ổn, nhưng ngực nhỏ hiện giờ hoàn toàn là một sự bất tiện; không làm được gì nhiều ở độ tuổi này nữa rồi. Quay lại, cô nhìn qua vai để xác định rằng cái mông của mình đã bị xệ và phần sau đùi đã bị nhăn; nhưng về tổng thể, cô quyết định, đối mặt với gương lần nữa, cô cũng không đến nỗi tệ. Cô sải bước với khoảng cách mười phút, cho đến khi cô đứng ở trên thảm phòng khách, và ở đó cô đi những bước nhảy mà cô đã học được ở một lớp học nhảy hiện đại ở trường Barnard - Đó là một bài tập thể dục tốt, và nó mang đến cho cô một cảm giác đa tình đầy hãnh diện. Cái gương đằng xa cho thấy một cô gái uyển chuyển, mảnh mai trong sự di chuyển không cần phải cố gắng nhiều, cho đến khi cô đi một bước sai và chết cứng trong sự vụng về. Cô đang thở gấp và bắt đầu toát mồ hôi. Thật là ngốc.
Việc cần làm là phải đi tắm. Nhưng khi cô đi vào phòng tắm cái gương ở tủ thuốc đã bắt lấy hình cô một cách độc ác như lúc bắt gặp hình ảnh mình ở cửa sổ ở trên phố ngày hôm đó, và rồi lại là: khuôn mặt của một người phụ nữ trung niên trong tuyệt vọng và có nhu cầu kinh khủng. Howard về nhà hai đêm sau cái đêm cô thôi không mong chờ ông ta nữa, và cô biết khoảnh khắc mà cô nhìn thấy ông ta, nếu như không phải từ âm thanh phát ra từ chiếc chìa khoá của ông ta trong ổ, đó hoàn toàn là sự kết thúc.
“... Đáng nhẽ tôi đã phải gọi điện cho em,” ông ta giải thích, “nhưng tôi không thấy có bất kỳ một lý do gì để làm em phải thức giấc chỉ để nói mỗi câu là tôi sẽ về muộn. Em thế nào rồi?”
“Cũng ổn ạ. Chuyến đi của ông thế nào?”
“À, nó chỉ là... một chuyến đi thôi mà. Để tôi rót rượu đã nhé, rồi chúng ta cùng nói chuyện.” Từ bếp vọng ra tiếng đá cục và ly rượu, ông ta gọi “Thật ra, Emily, có rất nhiều chuyện để nói,” và ông ta quay lại với cô với hai ly rượu đầy. Trông ông ta như hối lỗi vậy. “Trước tiên,” ông ta bắt đầu sau khi thở dài tiếp theo là những ngụm rượu đầu tiên, “Tôi không cho rằng đây thật sự là một tin tức đối với em về việc thỉnh thoảng tôi đã thăm Linda trong những chuyến đi như thế này trong suốt cả quãng thời gian trong quá khứ... cho dù cách đây bao lâu đi nữa.”
“Không,” cô nói. “Đó không phải là một tin tức.”
“Thỉnh thoảng tôi kết thúc công việc sớm hơn một hay hai ngày trước dự định,” ông ta tiếp tục, nghe có vẻ như được động viên lắm, “và tôi đã bay đến San Francisco và chúng tôi đã ăn tối với nhau. Không có gì ngoài việc đó. Cô ấy kể cho tôi nghe cô ấy đang như thế nào - và thật sự là cô ấy đang rất ổn: cô ấy và một cô gái khác có một công việc riêng, thiết kế quần áo - và tôi ngồi đó ứng xử như một người cha vậy. Đôi khi tôi hỏi liệu cô ấy đã gặp thanh niên tuấn tú nào chưa, và rồi khi cô ấy kể cho tôi về những người đàn ông mà cô ấy đã ‘gặp’ hay là ‘hẹn hò’ tôi cảm thấy trái tim tôi bắt đầu đập như điên vậy - tôi cũng không biết nữa. Tôi cảm thấy máu đang chảy xuống tận các đầu ngón tay. Tôi cảm thấy...”
“Đi vào vấn đề đi, Howard.”
“Được rồi.” ông ta gần như uống gần hết ly rượu của mình và rồi lại thở dài, như thể phần khó khăn nhát đã qua rồi. “Vấn đề là thật sự không có công việc nào liên quan đến National Carbon trong chuyến đi này,” ông ta nói. “Tôi đã nói dối em điều này, Emily, và tôi xin lỗi. Tôi ghét phải nói dối. Tôi đã dành toàn bộ thời gian cho Linda. Giờ thì cô ấy đã ba mươi nhăm rồi - không ai có thể gọi cô ấy là một đứa trẻ nhạy cảm nữa - và cô ấy đã quyết định muốn quay lại với tôi.”
Trong nhiều tuần và tháng sau đó, Emily nghĩ về những câu trả lời được sắp xếp ý tứ thật khéo, xúc cảm mà đáng nhẽ ra cô đã phải nói; vào lúc đó, dù sao, tất cả những gì cô có thể tập trung vào là cụm từ khá nhu mì và yếu đuối mà cô đã sử dụng từ thời niên thiếu là: “Em hiểu rồi.” Phải mất vài ngày để Howard chuyển đồ của ông ta ra khỏi căn hộ. Ông ta rất xin lỗi về tất cả mọi việc. Chỉ có một lần, khi ông ta rút cà vạt bằng lụa dày ra khỏi phòng để đồ, là cái lần mà có thể coi như một cảnh vậy, và nó đã trở thành một cái cảnh tồi tệ và bẩn thỉu - cái cảnh đó đã được kết thúc bằng việc cô quỳ gối xuống để ôm lấy chân ông ta và cầu xin ông ta, cầu xin ông ta ở lại - đến nỗi mà Emily có thể làm với tất cả khả năng của mình để rũ bỏ cuộc tình hoàn toàn ra khỏi đầu mình.
Có những điều khác trên đời này còn tồi tệ hơn là phải sống một mình. Cô tự nhủ hàng ngày về điều đó trong lúc cô làm việc một cách đầy hiệu quả, dành trọn tám giờ cho công ty quảng cáo Baldwin và chinh phục những buổi tối cho đến khi cô rơi vào giấc ngủ.
Không còn danh sách của Michael Hogan trong danh mục điện thoại Manhattan nữa, hay bất kỳ một danh sách nào của công ty quảng cáo của anh ta nữa. Anh ta vẫn thường nói là sẽ chuyển đến Texas, nơi là nhà của anh ta; có thể anh đã chuyển đi rồi.
Ted Banks vẫn còn trong danh sách, với địa chỉ cũ, nhưng khi cô gọi điện anh ta giải thích với một vẻ dường như ngượng nghịu rằng anh ta đã cưới một người phụ nữ tuyệt vời.
Cô cố gắng thử với những người khác - dường như cuộc sống của cô được lấp đầy với những người đàn ông - nhưng không một ai đi qua được cuộc đời cô. Không có ai với tên Flanders, John; và khi cô thử Flanders, J., ở Đại lộ cuối Tây, hóa ra lại là một giọng phụ nữ.
Trong một năm cô nhận thấy một nỗi đau thấm thìa - hoàn toàn thú vị - trong việc đối mặt với thế giới như thể cô không quan tâm. Hãy nhìn tôi đây này, cô có thể nói với bản thân mình vào giữa của một ngày đầy khó khăn. Hãy nhìn tôi đây này: tôi đang sống sót; tôi đang đương đầu; tôi đang điều khiển được tình hình.
Nhưng rồi lại có một vài ngày tồi tệ hơn những ngày khác; và một buổi chiều, một vài ngày trước khi sinh nhật lần thứ bốn mươi tám của mình, lại trở thành một buổi chiều tồi tệ nhất. Cô đang mang một tập bản thảo đã được hoàn thành lên phố trên để lấy sự chấp nhận của khách hàng, và trên đường về, cô đang đi vào văn phòng của Hannah Baldwin trước khi phát hiện ra mình đã để quên tập bản thảo đó ở trên xe taxi.
“Ôi, Chúa ơi!” Hannah kêu lên, quay cuồng trên chiếc ghế như thể bà ta bị bắn qua tim vậy. Rồi bà ta lại ngả người về phía trước, để cả hai tay lên bàn và ôm đầu với cả mười đầu ngón tay, làm xù bộ tóc chỉnh tề của mình. “Cô đang đùa đấy à?” Bà ta nói. “Đó là một bản thảo đã hoàn thành. Đó là một bản thảo đã được chấp nhận. Nó có chữ ký của khách hàng trên đó...”
Và Emily đứng đó trân trân nhìn bà ta, cuối cùng nhận ra bà ta đã không ưa mình đến mức nào, biết rằng đây có thể là lần cuối cùng cô phải đối mặt với sự bẽ bàng này.
“... Hoàn toàn là một sự cẩu thả,” Hannah nói. “Bất kỳ một đứa trẻ nào cũng đều có thể tin tưởng với một việc như thế này, và điều này thật đúng là đặc trưng của cô, Emily. Và nó không giống như thể cô không được cảnh báo trước vậy; Tôi đã cho cô nhiều cơ hội. Tôi đã cưu mang cô tôi đã cưu mang cô hàng năm trời nay - và đơn giản là tôi không thể chịu đựng hơn được nữa.”
“Tôi có nhiều điều muốn nói với bà, Hannah,” Emily nói, tự hào là mình chỉ run có một chút và rằng giọng cô hoàn toàn chắc chắn, “và điều đầu tiên là tôi đã làm việc ở đây quá lâu để có thể ‘bị đuổi việc’. Tôi muốn nghỉ việc hôm nay.”
Hannah hạ tay xuống khỏi mái tóc rối bời và nhìn vào mắt Emily một lúc. “Ôi, Emily, cô thật sự là một đứa trẻ. Chẳng nhẽ cô không nhận thấy là tôi đang giúp cô à? Nếu cô xin nghỉ việc thì cô sẽ chẳng có một cái gì. Nếu cô để tôi đuổi việc cô, cô sẽ được trợ cấp thất nghiệp. Chẳng nhẽ cô không biết điều đó hay sao? Cô sinh ra từ khi nào vậy?”
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...