Sáng sớm hôm sau, mọi người vội vàng rửa mặt vệ sinh xong xuôi, tay bưng bữa sáng nối đuôi nhau chui vào lều lớn, ngồi xuống thảm trải tiếp tục cùng nhau phân tích bốn bức nham họa.
Lần này Vệ Đông tách bốn bức nham họa ra, mỗi lần chỉ chiếu lên màn vải một cái.
Cảm giác áp lực làm người ta tuyệt vọng kia quả nhiên giảm đi rất nhiều, nhưng lại không phải hoàn toàn biến mất, chỉ là nằm trong phạm vi mọi người có thể miễn cưỡng chịu đựng được.
Loại trừ bức vẽ nham họa mặt A mà bọn họ đã phân tích ngày hôm qua, mọi người theo thứ tự nghiên cứu xem xét ba bức nham họa BCD còn lại, hình ảnh đa phần đều quỷ dị mà khó hiểu, mà khi họ chăm chú nhìn những đồ phù tựa như mấy cái xác không hồn kia một lúc lâu, trong đáy lòng lại chợt toát ra cảm giác sợ hãi đến sởn lạnh cả gai ốc.
Thấy mọi người trong lúc nhất thời cũng không cho ra được kết luận gì, Thiệu Lăng bước tới ngồi xuống trước máy tính, vừa dùng chuột thao tác hình ảnh, vừa nói “Những lúc cảm thấy tư duy rối loạn, biện pháp hữu hiệu nhất chính là quy nạp nó lại trước, sau đó mới khái quát.”
“Bốn bức tranh này chúng ta không cần quy nạp, vì bản thân mỗi một bức nham họa đều tự thành một chủng loại, như vậy điều chúng ta có thể làm hiện tại là, trước hết rút ra một cái tư tưởng cốt lõi ngắn gọn mà súc tích cho bốn bức tranh này.”
“Trước tiên chúng ta nói về bức nham họa A, ngày hôm qua chúng ta đã tỉ mỉ phân tích nó, tạm thời cứ gán cho nó chủ đề là nghi lễ cúng tế hoặc nghi thức vu đảo.”
“Nội dung của bức nham thạch B có chút phức tạp lại lộn xộn, có lẽ cũng là bức tranh với số lượng đồ phù nhiều nhất. Mới nãy tôi có cố ý quan sát kết cấu chỉnh thể của bức tranh này, nhưng không phát hiện bố cục đồ phù theo quy tương tự như bức nham họa A đã thể hiện, không có vòng tròn, cũng không có vết tích của việc sắp xếp đồ phù dựa theo chủng loại, không biết mọi người có ai có phát hiện gì khác đối với bức nham họa này không?”
“Tui phát hiện trong bức nham họa này giống như có rất nhiều động vật,” La Bộ giơ tay trả lời “Có lẽ là bởi do tui khá thích động vật, nên nơi này có rất nhiều đồ phù mặc dù thoạt nhìn thì không có liên quan gì tới động vật hết, nhưng tôi lại cứ cảm giác hình tượng cùng hành vi của chúng nó rất khớp với một vài dấu hiệu đặc trưng của động vật.”
“Không sai, chỗ này có mấy cái đồ phù nhìn rất giống sinh vật dưới biển.” Phương Phỉ cũng nói.
“Hơn nữa giống như có rất nhiều thực vật cùng sông ngòi núi non.” Nhạc Sầm cũng bổ sung.
“Như vậy xem ra, rất có khả năng giống như suy đoán trước đó của chúng ta vậy, hình ảnh khắc trên vách đài nham thạch kia chính là một phần đã thất truyền của Sơn Hải Đồ phiên bản nguyên thủy.” Tần Tứ nói “Hay là… những hình ảnh thể hiện trên bức nham họa B kia, chính là cảnh tượng của thế giới tự nhiên Sơn Hải?”
“Rất có khả năng này.” Thiệu Lăng cùng Hoa Tế Thu tỏ vẻ đồng ý.
“Đông Tử, mày phát hiện được gì à?” Kha Tầm để ý thấy Vệ Đông vẫn luôn cau mày cúi đầu thao tác gì đó trên một cái máy tính xách tay khác.
“Tao cảm giác như… có vài đồ phù ở trên mặt nham họa B rất giống với Sơn Hải Đồ trên tướng cốt của chúng ta…” Vệ Đông miệng nói tay cũng không dừng lại “Tao tính đối lập hai cái lại xem sao, cơ mà chắc phải tốn một ít thời gian…”
“Mày cứ làm tiếp đi, mấy thứ khác không cần lo, cứ giao cho mọi người.” Kha Tầm vỗ vỗ lưng hắn.
Thiệu Lăng bên đây nói tiếp “Vậy chúng ta tạm thời xem nội dung trên bức nham họa B có vẻ như miêu tả những phong cảnh thiên nhiên, chủ đề của nó trước hết tạm định là ‘Sinh linh’.”
“Rồi, chúng ta tiếp tục với nham họa C, trong số các bức nham họa thì bức nham họa C này xem như quỷ dị khó hiểu nhất, cũng đáng sợ nhất.”
“Nếu như nói, những đồ phù biểu trưng cho sinh vật con người trong bức nham họa A mà chúng ta hoài nghi có thể là ‘đồ cúng’, chúng nó như bị ai đó thô bạo bẻ gãy cổ, tay chân thậm chí là cơ thể, bày ra những tư thái tử vong quỷ dị, như vậy sang bức nham họa C, toàn bộ những đồ phù như đại biểu cho các sinh vật, lại được mô tả với trạng thái hoàn toàn không giống như đang sống sót.”
“Tôi không rõ có phải do cái nhìn chủ quan ban đầu hay là nguyên nhân nào khác hay không, theo góc nhìn của tôi, tuy rằng đồ phù trên nham họa C cũng tương tự như đồ phù trên nham họa B, chẳng có gì khác nhau mấy, nhưng tôi lại có cảm giác đồ phù trên nham họa C giống như… tràn đầy không khí chết chóc.”
“Từng cái đồ phù đều không có chút sức sống nào, dù cho thoạt nhìn chúng nó như đang đi lại, cũng giống như một khối xác vô hồn, đầy ắp vẻ mịt mờ vô hồn vô cảm. Không biết mọi người có ai cảm giác như vậy hay không? Hoặc là có ý kiến nào khác?”
“Tui cũng cảm giác giống vậy đó.” La Bộ gật đầu liên tục “Có lẽ là do từ bé tới lớn, trong nhà tui lúc nào cũng nuôi rất nhiều động vật, bởi nên tui rất nhạy cảm với những cảm xúc dù là cực kỳ nhỏ nhặt mà chúng nó lộ ra. Tất nhiên, mấy cái đồ phù này vốn là vật chết, không giống với động vật còn sống, cơ mà cũng không hiểu tại sao nữa, tui cảm giác như có một cái gì đó làm người ta cảm thấy vô cùng áp lực cùng tuyệt vọng đến cùng cực toát ra từ đâu đó trên mấy cái đồ phù này… Ài, tui nghĩ chắc tui lại bị mấy hình ảnh này mê hoặc rồi, trong lòng thấy khó chịu quá đi… Chị Thanh Thanh, cho tui mượn cái bình oxy hít mấy cái đi…”
“Mọi người có phát hiện ra không?” Tần Tứ là bác sĩ vẫn luôn quan sát hết sức tỉ mỉ “Ở phần trên của nham họa mặt C, các đồ phù hầu như đều ngửa đầu lên, nhưng đến phần bên dưới, toàn bộ đều cúi đầu xuống. Nếu như nói những đồ phù phía trên khiến người ta chỉ cảm giác một loại mờ mịt cùng cứng đờ, vậy thì phần bên dưới chính là chết lặng cùng uể oải, tựa như cỏ khô héo rũ vậy.”
“Hay đây là vì thể hiện thứ bậc giai cấp?” Thiệu Lăng suy ngẫm nói “Những phần nằm bên trên là giai cấp thượng tầng, còn phần bên dưới là giai cấp dưới chót?”
“Nhưng mà, toàn bộ đồ phù thể hiện trên bức nham họa này đều không giống như còn sống sót,” Kha Tầm nói “Chẳng lẽ sinh vật đã tử vong cũng phân chia giai cấp?”
Lời này khiến Thiệu Lăng nghẹn họng, thật lâu sau mới nói “Nếu như bảo trên đời này có thứ gì là công bằng tuyệt đối nhất, câu trả lời ắt hẳn sẽ là tử vong, cho nên tử vong sẽ không phân chia giai cấp.”
“Vậy tức là không phải thể hiện thứ bậc giai cấp đúng không?” Kha Tầm nói “Mọi người nhìn xem, trong bức nham họa C vẫn xuất hiện cái gã ‘vai chính’ có ánh mắt kia, nó cũng đang ngửa đầu, mọi người nghĩ xem có phải nó đang quan sát cái gì không?”
“Có lẽ nó đang quan sát thứ vô hình không thấy được trong bức nham họa A.” Nhạc Sầm nói.
“Như vậy, chủ đề của bức tranh này rốt cuộc là cái gì?” Hoa Tế Thu suy ngẫm “Là tử vong? Quan sát? Hay là mờ mịt chết lặng?”
“Hoặc có lẽ là, sống không bằng chết.” Kha Tầm nhún nhún vai “Tôi nói bừa á, vừa nhìn thấy mấy cái đồ phù này không hiểu sao trong óc liền xuất hiện mấy từ này.”
“Vậy tạm định nó là ‘Tử vong’ đi.” Thiệu Lăng nói “Tiếp theo là nham họa mặt D, bên trên này có mấy cái dấu hiệu thoạt nhìn rất giống gợn sóng nước, tôi cảm thấy tương đối khá dễ hiểu, mấy cái gợn sóng kia chiếm cứ gần như toàn bộ không gian của cả bức nham họa, mà những đồ phù đại biểu cho sinh vật kia tuy vẫn không có mắt mũi miệng, nhưng dựa theo ngôn ngữ cơ thể cùng bầu không khí chỉnh thể của bức tranh, chúng nó như đang vô cùng sợ hãi cùng đau khổ, cả bức nham họa đều tràn ngập cảm giác kinh hoàng như tận thế ập đến, chỉ nhìn đã cảm thấy run sợ hoảng hốt.”
“Chúng ta tạm thời định ra chủ đề của bức nham họa này là ‘Hồng thủy’.”
“Kế tiếp, chúng ta xem lại bốn chủ đề của bốn bức tranh này: Cúng tế hoặc vu đảo, sinh linh, tử vong, hồng thủy.”
“Tôi nghĩ thứ tự sắp xếp của bốn bức nham họa này, hẳn chính là như vậy: Sinh linh, hồng thủy, tử vong, tế đảo (*).”
“Còn vì sao lại sắp xếp thứ tự như vậy, là do căn cứ vào trận đại hồng thủy đã từng xảy ra thời cổ đại mà phỏng đoán. Tôi đoán, điều mà trong bức nham họa ‘Sự sống’ kia muốn thể hiện, chính là cảnh tượng phồn vinh của chúng sinh thời đại ấy, trong nham họa B có muôn hình vạn trạng núi non sông ngòi, có vô số động vật cùng thực vật, là những thứ mà ba bức tranh khác không có.”
“Rồi kế tiếp đã xảy ra đại hồng thủy, cũng chính là trận đại hồng thủy mà Cổn và Vũ(*) đã chữa trị hơn hai mươi năm. Đại hồng thủy đương nhiên sẽ gây ra tử vong vô số, thế nên mới dẫn đến hành vi tế đảo, để van xin trời cao ngừng trút nước, đồng thời siêu độ vong linh người đã chết. Không biết mọi người cảm thấy thế nào?”
Hoa Tế Thu trầm ngâm nói “Ý tưởng của tôi với Tiểu Thiệu có một chút khác nhau, tôi thì cho rằng thứ tự sẽ là: Hồng thủy, tử vong, tế đảo, chúng sinh —— tôi nghĩ đổi ‘Sự sống’ thành ‘Chúng sinh’ có lẽ càng cụ thể hơn một chút.”
“Trận đại hồng thủy xảy ra thời cổ đại đã gây ra tử vong vô số cho người cùng động vật, những người xưa vốn thờ phụng sức mạnh quỷ thần đã tiến hành hoạt động tế đảo, khẩn cầu nước rút, khẩn cầu trời xanh phù hộ, hoặc có thể là khẩn cầu thần linh hạ phàm giúp đỡ con người.”
“Và rồi thế gian có Đại Vũ, Đại Vũ trị thủy, sau đó chúng sinh phồn vinh.”
“Tuy rằng phỏng đoán về thứ tự các bức nham họa của hai người có chút không giống nhau, nhưng đều đặt cả bốn bức nham họa vào trong bối cảnh lịch sử Đại Vũ trị thủy, tôi cảm thấy hướng suy nghĩ này là chính xác.” Tần Tứ nói “Như vậy xem ra, nội dung mà bốn bức nham họa này biểu hiện, cơ bản đã có thể nối liền với nhau.”
“Tổng kết một câu, chính là kể lại vì sao phải tế đảo, quá trình tế đảo, kết quả tế đảo, hay là nói kết quả tế đảo đạt được như kỳ vọng.” Chu Hạo Văn nói.
Hoa Tế Thu gật đầu “Điều này quả thực phù hợp với toàn bộ yếu tố cần có của một bức vẽ vu đảo.”
“Vậy theo mọi người thì, Đại Vũ có ở trên bốn bức điêu khắc vách nham này không?” Lý Tiểu Xuân hỏi.
La Bộ chỉ tay vào phù đồ ‘vai chính’ nói “Tui nghĩ này chắc là Đại Vũ đó.”
“Nếu như đây thật sự là Đại Vũ, như vậy một bộ phận của các bức nham họa này đều có một phần cơ sở từ lịch sử.” Thiệu Lăng nói “Đại Vũ đi khắp thiên hạ, từng nhìn thấy vô số các loại chim lạ thú hiếm cùng yêu ma quỷ quái —— cũng chính là chủ đề mà bức nham họa B này thể hiện: sinh linh, hoặc là chúng sinh.”
“Tiếp đó, đã xảy ra tai nạn ‘Hồng thủy’ mà bức nham họa D thể hiện, mọi người ai cũng đều biết, Đại Vũ là người đã trị hồng thủy.”
“Rồi tiếp theo chính là nham họa C ‘Tử vong’, sau khi hồng thủy qua đi, sinh linh đồ thán, đây là tổn thất không thể nào tránh khỏi.”
“Cuối cùng là nghi thức tế đảo, có lẽ đã diễn ra sau khi Cửu Đỉnh được đúc thành —— nên nhớ, đỉnh cũng là một vật dụng trong nghi thức cúng tế, tướng cốt trên người chúng ta là từ quỷ văn tạo thành, nham họa trên vách nham thạch cũng là từ quỷ văn tạo thành, mà trên Cửu Đỉnh lại được khắc Sơn Hải Đồ cũng do quỷ văn tạo thành —— cũng chứng tỏ, nghi thức tế đảo kia có ắt hẳn có mối quan hệ với quỷ văn, với Cửu Đỉnh cũng như 《 Sơn Hải Kinh Đồ 》.”
“Vậy mau nhìn xem, coi trên mặt nham họa A đại biểu cho nghi thức tế đảo có xuất hiện Cửu Đỉnh hay không?” Kha Tầm vội nói.
Thiệu Lăng lập tức đổi hình chiếu chuyển sang nham họa A, một đám người ai nấy cũng trợn to hai mắt tìm kiếm trên hình ảnh.
Nhưng trợn tới mức muốn lồi cả hai mắt mà vẫn chẳng thấy cái đồ phù nào thoạt nhìn giống cái đỉnh.
“Hay là do ngoại hình của Cửu Đỉnh không giống với mấy cái đỉnh bình thường khác?” Cố Thanh Thanh nói “Bởi vì chẳng có tài liệu lịch sử nào có ghi lại chi tiết về hình dáng và cấu tạo của Cửu Đỉnh cả.”
“Này cũng có khả năng lắm nè, biết đâu chừng ngoại hình của Cửu Đỉnh cũng vuông vuông vức vức giống như cái đài nham thạch bên ngoài thì sao.” Kha Tầm nói.
“Chẳng phải đỉnh đều có ba chân sao? Một cái đỉnh mà không có ba chân thì sao còn gọi là đỉnh nữa?” Lý Tiểu Xuân hỏi.
“Không, đỉnh không nhất thiết phải có ba chân,” Hoa Tế Thu nói “Tư Mẫu Mậu Đỉnh (*) là đỉnh vuông có bốn chân.”
“Đỉnh vuông…” Kha Tầm sờ sờ cầm suy ngẫm “Đài nham thạch cũng là hình vuông, vậy liệu có phải… bên dưới nó cũng có bốn chân, nhưng đã bị chôn sâu dưới lòng đất?”
Lời này khiến mọi người hai mắt đều sáng lên, thi nhau lên tiếng “Rất có khả năng này!”
“Các đồng chí!” Vệ Đông bỗng hét to một tiếng “Có kết quả bước đầu so sánh giữa Sơn Hải Đồ trên tướng cốt và nham họa mặt B rồi nè!”
Mọi người nghe vậy đều hấp tấp bu quanh bên cạnh Vệ Đông, đồng loạt theo hướng ngón tay hắn chỉ nhìn vào màn hình máy tính.
“Tui đã tách ra một bộ phận nhỏ trong Sơn Hải Đồ trên tướng cốt của chúng ta,” Vệ Đông vừa nói vừa ra dấu “Nhìn xem, mấy phần này là hình dáng của ngọn núi nào đó, mọi người lại nhìn hình bên này, đây là một phần đồ phù trên vách nham thạch mặt B, sau khi chúng nó nối lại cùng nhau —— thấy không, có phải thoạt nhìn cũng na ná với hình dáng ngọn núi này không?”
“Tất nhiên, đây chỉ là na ná nhau mà thôi, rất nhiều chi tiết không giống nhau, cơ mà tui đoán hai ngọn núi này rất có thể là cùng một ngọn núi!”
“Hoặc nói theo cách dễ hiểu thì, giống như có hai vị họa sĩ cùng một phong cách hội họa, bảo bọn họ cùng vẽ ra một ngọn núi thì tranh vẽ ra đương nhiên sẽ không giống hệt nhau. Mà hai bức ảnh chúng ta đang nhìn đến trước mắt, xuất phát từ hai chất liệu khác nhau, cũng bởi vì như vậy cho nên tui mới cho rằng, chúng nó thể hiện đều là cùng một ngọn núi, chẳng qua là do chúng nó bị vẽ ra hoặc là điêu khắc bởi hai họa sĩ hoặc hai người thợ khác nhau mà thôi.”
“Phát hiện này của Vệ Đông rất quan trọng,” Thiệu Lăng gật đầu “Việc này cũng càng chứng minh, những bức vẽ trên vách nham thạch kia chính là một phần của Sơn Hải Đồ, Sơn Hải Đồ thuộc về Cửu Đỉnh trên tướng cốt của chúng ta, cùng với Sơn Hải Đồ trên đài nham thạch kia, giống như hai bộ phận gộp thành một khối giác, chúng nó ghép lại cùng nhau, chính là bức《Sơn Hải Đồ》chính thức nhất, đầy đủ nhất, chính tông nhất!”
“Vậy cũng xuất hiện vấn đề rồi,” Kha Tầm nói “Đài nham thạch kia cùng Cửu Đỉnh có quan hệ gì với nhau? Trên người chúng nó mỗi bên đều có một nửa của 《Sơn Hải Đồ》, vậy có phải tức là cần phải ghép chúng lại với nhau, mới có thể kích hoạt bước cuối cùng? Hiện tại Cửu Đỉnh đã mất tích, những người có tướng cốt Cửu Đỉnh như chúng ta cũng tương đương như Cửu Đỉnh đúng không? Chẳng lẽ… đến cuối cùng chúng ta thật sự phải hòa làm một thể với đài nham thạch kia sao?”
_________________________
Chú thích
(*) Tế đảo : tế của Tế tự (cúng tế), đảo của Vu đảo, gộp lại là tế đảo, tức vừa cúng tế vừa cầu nguyện.
(*) Cổn – Vũ trị thủy (trích từ Wikipedia)
Thành viên Hạ tộc đầu tiên được văn hiến ghi chép là Cổn. Trong “Quốc ngữ-Chu ngữ” có ghi rằng Cổn là thủ lĩnh của Hạ tộc, được phong tại Tung, cho nên được gọi là “Tung bá Cổn”. Sau này, Vũ kế thừa Cổn làm “Tung bá Vũ”. Điều này thể hiện rằng Hạ tộc hoạt động ở phụ cận Tung Sơn. Đương thời, nước sông gây lụt, có không ít các bộ lạc hình thành liên minh bộ lạc nhằm chống lại nước lụt, Cổn được Tứ Nhạc cử làm lãnh đạo trị thủy, trải qua chín năm song cuối cùng thất bại. Nguyên nhân trị thủy thất bại có khả năng là do ông không giỏi trong việc đoàn kết tộc nhận cùng các bộ lạc khác.
Vũ là con của Cổn, sau khi Cổn mất, Vũ thụ mệnh của Thuấn làm công tác trị thủy. Vũ cải tiến phương pháp trị thủy của cha, nạo vét dòng sông, đoàn kết tộc nhân các bộ lạc, cuối cùng chế ngự được nước lụt. “Sử ký-Hạ bản kỉ” có chép rằng khi Vũ trị thủy “lao thân tiêu tư, 13 năm sống ở ngoài, qua cửa nhà không dám vào”, tinh thần khắc khổ này được hậu thế truyền tụng, trong quá trình trị thủy có khả năng cũng đã xúc tiến đoàn kết giữa tộc nhân các bộ lạc. “Mạnh tử-Đằng Văn công” đề cập đến phương pháp trị thủy của Vũ: “khai thông chín sông, đào thông Tể, Tháp ra Chư Hải, khơi Nhữ, Hán; tháo nước Hoài, Tứ vào Giang” Vũ cũng đề xướng nông nghiệp, nhấn mạnh “tự thân trồng trọt mà có thiên hạ
(*) Tư Mẫu Mậu Đỉnh (司母戊鼎):dòm hình minh họa hen
//