Sáng hai mươi mốt, sau khi an táng Tư Đồ Xán, mọi người kéo cả về Thúy Phong Cốc. Một trăm chín mươi hai đệ tử của Tư Đồ Xán đã vui vẻ phục vụ chủ nhân mới. Họ những tưởng mình sẽ thất nghiệp khi chủ nhân cũ qua đời, may sao nhà Tư Đồ vẫn còn người thừa kế.
Công việc đầu tiên mà những kiếm thủ này phải làm là khai quật lớp đất đá phủ đầy nền Thúy Phong Cốc để tìm hài cốt.
Đến cuối tháng năm, nhờ lực lượng đông đảo, bọn Tư Đồ Sảng đã làm lộ ra toàn bộ những căn nhà đổ nát dưới đáy Thúy Phong Cốc. Và lạ thay, họ chỉ tìm thấy bốn tử thi thối rữa, thay vì sáu. Dựa vào y phục, râu tóc, người ta hoàn toàn có thể xác định đấy là xác của Táo Gia Cát, Lý Tứ và vợ chồng Tư Không Cốc Chủ.
Hy vọng về sự thoát chết thần kỳ của Phi Hồng, Phi Tuyết không làm nguôi được nỗi buồn của những người đang sống. Tư Đồ Sảng và Tây Môn Giới quỳ xuống khóc lóc thảm thiết.
Thiên Sư Giáo Chủ cử hành nghi lễ tang ma Đạo giáo và đến chiều thì bốn ngôi mộ mới mọc ngay trên nền Thúy Phong Cốc.
Tuy đã có Đảo Mệnh Linh Kỳ nhưng Trương Thiên Sư không hiểu phải làm thế nào vì chẳng thể hồi sinh cho bốn cái xác đã rửa nát và hai kẻ chẳng ra sống chết.
Đêm ấy, Tư Đồ Sảng một mình ngủ lại Thúy Phong Cốc, những mong được vong hồn ái thê hiện về chỉ vẽ. Nhưng ngay đầu canh hai trời đã mưa như trút nước và sấm xét liên tục giáng xuống đỉnh núi Thúy Phong.
Tư Đồ Sảng thức trắng đêm, co ro trong túp lều vải mà họ đã dựng lên để ở tạm trong những ngày khai quật. Chàng đã cố ngủ đi song chẳng được.
Và Tư Đồ Sảng nhận ra có những luồng sét đánh thẳng xuống sơn cốc, rất gần với bốn ngôi mộ mới đắp. Chàng vô cùng lo sợ cho di thể của người thân, bối rối suy nghĩ một lúc mới tìm ra chủ ý.
Tư Đồ Sảng tuốt trần Từ Tâm Kiếm, lao vút về hướng đống đất đá cao nghêu ở giữa sơn cốc. Đấy là chỗ mà Trương Thiên Sư, Trại Tôn Tử và Tây Môn Giới thường ngồi uống trà, chỉ huy cuộc đào bới, nên Tư Đồ Sảng đã vác lên cho họ vài tảng đá làm bàn ghế.
Chiếc bàn thô sơ ấy do hai tảng đá tương đối bằng phẳng ghép lại, khả dĩ đặt được khay trà. Tất nhiên mối ghép không khít vẫn hở một đường độ lóng tay.
Giờ đây, Tư Đồ Sảng nhanh nhẹn cắm dựng đứng trường kiếm vào khe hở ấy rồi lập tức tung mình nhảy thật xa, rơi xuống đất. Chàng chỉ chạy thêm được vài trượng thì thanh Từ Tâm Kiếm đã hứng chịu luồng sét đầu tiên. Lông tóc trên người Tư Đồ Sảng đều dựng ngược cả lên, da thịt rờn rợn vì điện tích, song chàng đã ở khá xa nên không sao.
Về đến lều, chàng yên tâm thay y phục khô vì thấy sấm sét tập trung cả vào Từ Tâm kiếm, không còn đánh loạn xạ khắp nơi nữa.
Gần cuối canh tư mưa gió mới tạnh Tư Đồ Sảng nằm xuống, cố dỗ dành giấc ngủ. Và chàng mơ thấy một nữ lang áo trắng hiện về mờ áo, lúc thì giống Phi Tuyết hoặc Phi Hồng, lúc thì rất xa lạ. Mái tóc và y phục của nàng ta bị cháy xém nhiều mảnh, trông rất tang thương, và ánh mắt còn lộ rõ vẻ khiếp đảm.
Nàng ta nghẹn ngào nói :
- May mà tướng công là người thông tuệ, đã nghĩ ra cách dùng trường kiếm để thu lôi, nếu không, kiếp này chúng ta đành vĩnh biệt. Nhưng nay ý trời không thuận, chúng ta chẳng thể tương phùng. Chàng hãy tu nhân tích đức, bố thí rộng rãi cho người nghèo khổ trong thiên hạ, may ra động đến lòng trời ! Trước mắt, chàng hãy đi ngay Phúc Châu vấn an nội tổ mẫu cho tròn chữ hiếu !
Tư Đồ Sảng chưa kịp hỏi han thì oan hồn biến mất. Chàng giật mình tỉnh giấc, thấy trời sắp sáng liền ra đống đất cao kia thu hồi trường kiếm để vào thành.
Từ Tâm kiếm vẫn còn nguyên vẹn nhưng đã chuyển sang màu xám đen. Muốn biết nó còn sử dụng được hay đã bị hủy hoại, Tư Đồ Sảng thử chém vào tảng đá. May thay, lưỡi gươm vẫn không hề bị sức mẻ hay gãy đoạn.o0oGiữa hạ tuần tháng sáu, có một đại hán áo gấm dừng cương trước tòa đạo quán Thiên Sư trong thành Phúc Châu.
Vị Quán chủ của Đạo quán này là Linh Hối Tử, đại đồ đệ của Trương Thiên Sư. Tuy tuổi ông ta đã ngoài ngũ thập song vẫn phải cung kính chắp tay chào khách :
- Đệ tử xin bái kiến Ngũ sư thúc !
Vậy thì gã đại hán rậm râu kia chính là Tư Đồ Sảng. Chàng điềm đạm đáp lễ rồi theo Linh Hối Tử vào khách xá.
Nghe sư thúc hỏi về tình trạng Tư Đồ gia trang, Linh Hối Tử vuốt chòm râu cằm dài và đẹp rồi tư lự đáp :
- Bẩm sư thúc ! Tin tức về cái chết của Tư Đồ Xán tiên sinh chưa đến tai người thân, song đã có lời đồn rằng ông ta bị đánh trọng thương. Tư Đồ lão thái là tín đồ của bổn giáo, thường đến đây cúng bái trong những ngày sóc, vọng, từng thổ lộ với đệ tử mối lo ngại ấy ! Lão thái đã cho người đi Lạc Dương để kiểm chứng tin đồn !
Tư Đồ Sảng bồi hồi hỏi lại :
- Này sư điệt ! Chẳng lẽ Gia tổ mẫu vẫn còn đủ tráng kiện để vượt hơn chục dặm đường đến đây sao ?
Linh Hối Tử mỉm cười :
- Bẩm phải ! Lệnh Tổ mẫu tuy tuổi đã chín mốt mà sức khoẻ dồi dào, tinh thần minh mẫn, tháng nào cũng hai lần ngồi xe vào thành để lễ bái Tam Thanh. Sư thúc mà nhìn thấy lão Thái tất sẽ phải ngạc nhiên !
Tư Đồ Sảng bỗng nghe lòng dào dạt tình cảm ruột rà, khát khao được quì dưới chân bà nội, thanh minh cho nỗi khổ tâm của cha mình. Tư Đồ Quát luôn kể về người mẹ hiền với tất cả niềm kính yêu và hối tiếc khôn nguôi. Chàng nguyện sẽ thay cha mà báo hiếu.
Nhưng Linh Hối Tử đã khiến chàng phải bối rối :
- Bẩm sư thúc ! Có lẽ việc sư thúc muốn nhận lại tông môn sẽ không hề đơn giản ! Vì hiện nay, Hải Hoa Bang đã mở một phân đàn ở vị trí rất gần với Tư Đồ Gia trang. Mảnh đất ấy trước đây thuộc về Vương Gia trang, một nhà đại phú trong ngành sản xuất tượng gỗ, đối thủ cạnh tranh của họ Tư Đồ ! Có lẽ Vương Trang chủ muốn dựa vào thế lực của Hải Hoa Bang để loại Tư Đồ Gia trang ra khỏi thương trường ! Sản phẩm Tượng thần của nhà họ Vương vẫn không được thị trường ưa chuộng bằng hàng của họ Tư Đồ ! Tóm lại, nếu Ngũ sư thúc để cho Hải Hoa Bang biết mình là cháu đích tôn của Tư Đồ lão thái thì rất nguy hiểm cho quí trang !
Nghe xong, Tư Đồ Sảng đăm chiêu suy nghĩ rất lâu rồi trình bày với Linh Hối Tử kế sách của mình !
Sáng sớm hôm sau, Linh Hối Tử chễm chệ trên cỗ xe độc mã của Đạo quán, rời thành Phúc Châu đi về hướng Đông. Đánh xe cho lão không phải là tên đạo sĩ trẻ cấp dưới mà là một chàng trai tuổi đôi mươi áo vải nghèo nàn, thân hình cao lớn rắn chắc. Dưới chiếc nón tre rộng vành cũ kỹ là gương mặt rám nắng, đen đúa nhưng khá anh tuấn.
Chàng ta có đôi bàn tay thô ráp, sần sùi đầy những vết chài, vết sẹo, biểu hiện của kẻ phải lao động rất vất vả.
Quả đúng vậy, Tư Đồ Sảng đã phải phơi mình dưới nắng hạ gay gắt, cật lực đào bới suốt mười ngày trời để tìm hài cốt người thân ở đáy Thúy Phong Cốc, nên giờ đây có đầy đủ dáng vẻ của một kẻ nghèo hèn, cơ cực.
Chàng rất ít khi để lộ chân diện mục nên không sợ phe Hải Hoa Bang nhận ra. Ngay cả Nam Hải Tiên Ông và Giáp Vô Yên dẫu có gặp chàng chẳng thể ngờ rằng Thần Phủ Lang Quân lại có mặt ở Phúc Châu, trong vai chàng trai nghèo nàn, lam lũ.
Và tấu xảo thay, Linh Hối Tử cũng mang họ Tư Đồ nên chàng có thể dùng tên thực, giả làm cháu của lão, đến xin việc ở xưởng tạc tượng trong Tư Đồ Gia trang !
Quê hương chính của họ Tư Đồ ở đâu thì thật khó mà xác định được. Vì ba cái họ Tư Đồ, Tư Không, Tư Mã vốn là ba chức quan xuất hiện từ thời nhà Chu.
Có sách cho rằng ba chức ấy là Tam Công, quan đầu triều đình của Tây Chu. Nhưng sách khác lại bảo rằng Tam Công gồm thái sư, thái phó, thái bảo, còn Tư Đồ, Tư Không, Tư Mã chỉ là ba vị trưởng quan dưới quyền của khanh sĩ. Tư Đồ là quan phụ trách ruộng đất công, núi rừng, thuế má, bổ sưu dịch. Tư Mã quản lý ngựa chiến, quân sự hành chính, phụ tá chủ soái quản lý quân đội khi tác chiến, trưng thu thuế về quân sự. Tư Không là quan quản lý xây dựng công trình.
Gốc gác của ba chức quan ấy là thế, song chúng biến thành họ của người Trung Hoa từ lúc nào thì chẳng ai biết cả ! Có lẽ con cháu tự hào bởi quan tước của ông cha nên lấy làm họ cho sang. Nhưng tại sao không có ai mạng họ Thái sư hay thừa tướng nhỉ ? Và dường như cũng chẳng có hai có họ Tư khấu, chức quan Tư pháp mà Khổng Tử đã từng đảm nhiệm ở nước Lỗ !
Tóm lại, sau hơn hai ngàn năm, từ thời Chu đến thời Minh thì con cháu ba đời họ ấy đã đông nhung nhúc, có mặt khắp Trung Hoa, gồm nhiều chi nhánh, tuy cùng là Tư Đồ nhưng chẳng hề có dây mơ rễ má gì cả !
Song dân Trung Hoa lại có tập quán xem những người đồng tính (cùng họ) là thân thích, dù kẻ Bắc người Nam không chút liên quan. Do vậy, Linh Hối Tử rất được Tư Đồ Gia trang quí mến, kính trọng.
Núi Cổ Sơn nằm cách thành Phúc Châu độ gần hai chục dặm về hướng Đông. Nó nổi tiếng nhất là nhờ ngôi chùa Dũng Tuyền Tự cổ kính, tráng lệ nhất vùng sông Mân Giang. Cửa chùa có hai tòa tháp bằng đất nung, xây từ thời nhà Tống. Đôi tháp này cao đến gần hai mươi trượng (bảy mươi hai mét), gồm chín tầng hình bát giác, trên tháp có bảy mươi hai chiếc chuông đồng và một ngàn lẻ ba mươi tám pho tượng Phật. Các tầng của thân tháp đều được mô phỏng theo kiến trúc gỗ, vô cùng tinh xảo và đẹp mắt. Xung quanh chùa có nhiều phong cảnh đẹp như lầu các, hang động, vách núi ... Hơn hai trăm năm sau, hoàng đế Khang Hy nhà Mãn đã làm tăng giá trị của ngôi cổ tự bằng cách tự tay viết lên bức hoành phi cổng chùa ba chữ Dũng Tuyền Tự.
Nhưng giờ đây giang sơn vẫn còn là của Đại Minh và dù không có nét bút của cái gã người Mãn ấy thì Dũng Tuyền Tự vẫn thu hút rất nhiều tín đồ và du khách.
Tư Đồ gia trang lại nằm gần chân Cổ Sơn trên con đường mà khách thập phương dập dìu lai vãng, nên việc bán tượng Phật rất thịnh vượng. Phật Tử mua tượng xong, đưa ngay lên chùa Dũng Tuyền Tự tiến hành nghi thức cúng bái, sau đó họ thỉnh vị Phật Tổ Linh thiêng ấy về thà mà thờ phụng !
Tất nhiên là họ phải cúng dường cho chùa Dũng Tuyền để trả công nên cả hai bên bán tượng và nhà chùa đều có lợi.
Giờ chúng ta vào Tư Đồ Gia trang để xem cảnh Tư Đồ Sảng hội ngộ với người thân. Cuối giờ Thìn, chàng và Linh Hối Tử có mặt trong khách sảnh của toà gia trang cổ kính.
Ngoài Tư Đồ lão thái, còn có cả vợ và hai con gái của Tư Đồ Xán ra tiếp khách. Đã lâu lắm rồi, Linh Hối Tử mới đến đây ! Tư Đồ Sảng bồi hồi nhìn lão phụ tóc bạc da mồi, mặt mũi phúc hậu, ngồi trên cỗ ghế đại ỷ, nghe lòng dạt dào cảm xúc. Và cả dung mạo hiền lành, héo hắt của người đàn bà bất hạnh, đã làm vợ một kẻ đầy tham vọng như Tư Đồ Xán cùng khiến chàng bất nhẫn. Đã sáu bảy năm nay, bà sống cảnh không chồng vì trượng phu mê bả lợi danh, đi mãi chẳng về.
Hai biểu muội của chàng đều đã trên dưới ba mươi. Thân hình nhỏ nhắn, nhan sắc trung bình nhưng phong thái tươi vui, hoạt bát. Có lẽ họ rất thông minh, tháo vát và khéo buôn bán thì mới có thể quán xuyến được cơ nghiệp của họ Tư Đồ. Tư Đồ Sảng nghe nói họ còn rất giỏi dạy chồng, biến hai gã người dưng ấy trở thành trợ thủ đắc lực cho việc kinh doanh của Tư Đồ gia trang ! Cô em họ thứ ba chỉ mới hai mươi, chưa xuất giá và đang phụ trách cửa hàng trong thành Phúc Châu.
Chàng ngượng ngập thi lễ với phe chủ nhà trong lúc Linh Hối Tử giới thiệu:
- Bẩm lão thí chủ ! Chàng trai quê mùa này là cháu họ của bần đạo, từ Thiểm Tây đến Phúc Châu tìm kế sinh nhai ! Y cũng thạo nghề tạc tượng gỗ nên bần đạo mới mạo muội ! Mong lão thí chủ thu nhận cho.
Tư Đồ Lão Thái đã hiểu mục đích cuộc viếng thăm của Linh Hối Tử, liền chú mục nhìn gã trai trẻ tha hương cầu thực. Bà bất giác nhận ra sống mũi Thông Thiên Đình và đôi mắt ấy rất quen thuộc. Đấy là đặc điểm của đứa con lãng tử đã bỏ bà mà đi biền biệt ba mươi mấy năm. Ngoài miệng bà luôn trách móc Tư Đồ Quát là bất hiếu nhi song trong lòng lúc nào cũng nhớ thương. Trưởng nam của bà tính tình rộng rãi, khoáng đạt chứ không nhỏ nhen, hẹp hòi như đứa thứ hai. Việc Tư Đồ Xán trở thành Minh chủ võ lâm, khiến bà hãnh diện song không vì thế mà đánh giá gã ta cao hơn Tư Đồ Quát !
Càng nhìn lâu, lão thái càng thấy mến chàng trai mộc mạc, khoẻ mạnh có gương mặt thuần hậu kia. Bà mỉm cười hòa ái và hỏi :
- Tiểu hài tử danh tính là gì, niên kỷ được bao nhiêu, và gia đình thế nào ?
Tư Đồ Sảng cố nén xúc động ấp úng thưa :
- Bẩm Lão thái ! Tiểu tôn tên gọi Tư Đồ Sảng, năm nay hai mươi ba tuổi ! Tiểu tôn chẳng may nên mồ côi cả cha lẫn mẹ !
Mối thương tâm trong lòng đã khiến nước mắt chàng long lanh như sắp khóc, trông rất đáng thương .
Tư Đồ Lão Thái thấy vậy thở dài bảo :
- Tội nghiệp cho ngươi quá ! Thôi được rồi ! Lão thân chẳng thể để một kẻ mang họ Tư Đồ phải sống vất vưởng nơi xứ lạ ! Ngươi cứ ở lại đây mà làm việc, nếu chăm chỉ tất sẽ có dư mà cưới vợ !
Rồi bà quay sang bảo con dâu :
- Trâm nhi ! Con xem thử xem có thể bố trí chàng trai tội nghiệp này vào bộ phận nào được ?
Nhũ danh của vợ Tư Đồ Xán là Định Thư Trâm. Tuy bà trông có vẻ hiền lành song lại rất có tài kinh doanh, quyết định chiến lược cho ba cô con gái thi hành. Tư Đồ Xán là thứ nam nên người trong trang gọi bà bằng Nhị nương.
Nhị nương nghe mẹ chồng nói vậy liền hòa nhã hỏi Tư Đồ Sảng :
- Chẳng hay hiền diệt có thể làm được việc gì trong qui trình chế tạo tượng gỗ ?
Tư Đồ Sảng kính cẩn đáp :
- Bẩm phu nhân ! Tiểu điệt có thể làm được bất cứ công đoạn nào, từ việc chọn gỗ cho đến sơn vẽ.
Nhị nương gật gù hài lòng rồi hỏi tiếp :
- Dám hỏi trong khâu sơn vẽ, hiền diệt có thể hoàn thành bao nhiêu tượng mỗi ngày ?
Tư Đồ Sảng thực thà đáp :
- Bẩm phu nhân ! Đối với những pho tượng có kích thước bằng người thật, tiểu điệt có thể hoàn tất mười pho trong một ngày !
Tư Đồ Lão Thái bật cười chế giễu :
- Tiểu hài tử chớ đại ngôn ! Người vẽ nhanh nhất là Trưởng nam của lão thân mà chỉ có thể đạt đến mức bảy pho ! Hay ngươi sợ thất nghiệp nên phóng đại tài năng của mình lên ? Thực ra, chỉ cần người hoàn tất đủ bốn pho là đã khá lắm rồi !
Tư Đồ Sảng nhìn bà bằng ánh mắt tôn kính và khẳng định lại :
- Bẩm Lão thái ! Tiểu diệt quyết chẳng dám ngoa ngôn, xin cứ cho thử sẽ rõ !
Tư Đồ Lão Thái không tin có kẻ giỏi hơn con mình, liền đứng phắt dậy dẫn mọi người xuống xưởng mộc ở phía sau trang.
Bà chỉ một pho tượng Như Lai đang ngồi và những thùng sơn, bảo Tư Đồ Sảng thi thố tài năng. Cạnh bàn vẽ có treo một bức tranh vẻ nhiều mầu sắc để làm mẫu.
Tư Đồ Sảng đã quá quen với công việc này và với yếu quyết nội công Bích Hổ Du Tường, chàng có thể giữ cho sơn không rơi khỏi chùm lông cọ nên mỗi lần nhúng nhiều gấp đôi một thợ vẽ bình thường.
Cánh tay mạnh mẽ của chàng điều khiển cây cọ lớn lướt trên thân tượng với tốc độ nhanh đến chóng mặt, trong hơn khắc đã quét xong mảng mầu lớn nhất là chiếc áo cà sa vàng.
Tư Đồ Sảng đổi qua bút lông để vẽ những chi tiết nhỏ như tóc, da, lông mày, miệng, mắt hoặc những vật bóng của nếp áo. Là kiếm thủ thượng thừa nên nét bút của chàng cực kỳ chuẩn xác, đều đặn, tinh tế, chỉ vẽ một đường là xong, chẳng cần phải tô sửa lại.
Gần hai khắc sau, pho tượng Phật đã được sơn vẽ xong và không có chỗ nào sai sót hay xấu xí cả.
Nhị nương và hai tiểu thư lắc đầu thán phục, còn Tư Đố Lão Thái thì ngẩn người lẩm bẩm :
- Té ra tháng bé này còn giỏi hơn Quát nhi của ta ! .
Bà bỗng nhớ đến đứa con phiêu lãng chân trời, buồn bã quay gót, lưng dường như còng hơn lúc nãy. o0o
Kể từ lúc ấy, Tư Đồ Sảng trở thành công nhân xưởng sản xuất tượng. Nhưng bộ phận sơn vẽ đã đủ người, chàng bèn làm bất cứ việc gì, quấy hồ giúp cho qui trình chế tác được thông suốt, không ứ đọng. Chàng làm cả công việc nặng nhọc nhất là vác gỗ nên chẳng ai có thể bảo chàng là kẻ lánh nặng tìm nhẹ.
Sản lượng mỗi ngày tăng gấp rưỡi lúc trước khiến các chủ nhân rất hài lòng. Hơn trăm thợ thuyền của xưởng cũng vui lòng vì lương bổng của họ tăng theo sản phẩm. Vì thế, họ rất yêu mến chàng trai hiền lành, ít nói, siêng năng và giỏi nghề.
Cuối tháng sáu, Tam tiểu thư Tư Đồ Bạch Ly hồi trang để Nhị tiểu thư ra thay phiên ở cửa hàng trong thành.
Bạch Ly xinh đẹp nhất nhà, thân hình mảnh khảnh, cao hơn hai chị là Tư Đồ Lan và Tư Đồ Huệ. Nàng còn khác họ ở sống mũi Thông Thiên Đình hợp cách, cao và thẳng đều chứ không cong gồ lên. Nàng giống bác ruột là Tư Đồ Quát chứ chẳng giống cha. Và có lẽ vì thế mà Bạch Ly không được Tư Đồ Xán yêu thương cho lắm.
Bạch Ly về đến, cả nhà quây quần lại trong phòng khách nhỏ trong khu hậu viện để hỏi han tình hình buôn bán. Nàng cau đôi mày liễu, bực bội kể :
- Bẩm nội tổ mẫu và mẫu thân, cửa hàng của nhà họ Vương đã bán phá giá để cạnh tranh, khiến chúng ta cũng phải xuống giá theo mà giữ khách hàng. Tuy nhiên, họ còn dùng thủ đoạn đê tiện là ngày ngày cho bọn côn đồ vào cửa hàng nhà ta, giả làm khách mua để quấy rối. Chúng chẳng hề mua gì cả và còn làm ngã đổ các pho tượng hoặc dọa nạt du khách. Hài nhi có nhờ quan nha can thiệp bắt chúng giải đi song hôm sau chúng lại đến. Có lẽ lão Tri huyện Phúc Châu đã bị nhà họ Vương mua chuộc rồi ! Nếu tình hình này cứ kéo dài thì e rằng chúng ta phải bỏ hẳn cửa hàng trong thành !
Tư Đồ Lão Thái buồn rầu nói :
- Nhà ta không có đàn ông nên mới bị người ngoài hiếp đáp như vậy. Mong sao cho cha ngươi vẫn an toàn, về đây giải quyết việc này. Trước giờ nhà họ Vương nào dám giở thủ đoạn cạnh tranh bất chính ấy ra.
Bạch Ly bỗng nhớ ra điều gì, phấn khích hỏi :
- Nội tổ mẫu ! Phải chăng nhà ta mới thu nhận một gã nhà quê tên Tư Đồ Sảng, cháu của Linh Hối Tử !
Tư Đồ Lão Thái gật đầu :
- Sao Ly nhi biết ?
Bạch Ly cười mát :
- Hôm qua đạo trưởng có ghé cửa hàng, nghe tiểu tôn than phiền về sự lộng hành của họ Vương, liền dặn tiểu tôn về bàn với gã Tư Đồ Sảng ấy là sẽ có cách giải quyết êm thắm !
Nàng hừ nhẹ rồi mai mỉa :
- Nếu tiểu tử ấy tài ba như thế thì đâu đến nỗi phải tha hương cầu thực ?
Tư Đồ Lan đã vào thành từ sáng, chỉ còn Đại tiểu thư Tư Đồ Huệ. Nàng vui vẻ bảo em :
- Tam muội chớ vội xem thường Tư Đồ Sảng ! Từ ngày y vào làm, sản lượng của xưởng đã tăng lên gấp rưỡi đấy ! Vả lại dung mạo của y và Ly muội rất giống nhau. Y cũng có kiểu mũi đẹp như Đại bá phụ.
Bạch Ly hiếu kỳ sai ả tỳ nữ hầu trà đi gọi Tư Đồ Sảng đến.
Trong nghề làm tượng thần thánh, thợ thuyền thường được nghỉ mỗi tháng bốn ngày, nhằm các hôm mười bốn, mười lăm cuối tháng, mùng một một ngày trước để nghỉ ngơi, tắm gội, ngày sau đến chùa hay Đạo quán để cúng lễ những vị thần Phật mà họ đã làm ra.
Nghĩa là, hôm nay Tư Đồ Sảng được nghỉ, chàng không vào thành ăn nhậu, vui chơi hoặc về nhà như những người thợ khác mà ngồi rịt ở xưởng, vẽ ra những mẫu mới. Cha chàng, Tư Đồ Quát, phiêu bạt mười năm, có dịp ghé qua nhiều địa phương, ghi nhận được hầu hết những vật tổ mà các dân tộc thiểu số Trung Hoa thờ phượng. Chàng dự định sẽ đề nghị Nhị nương cho sản xuất những loại tượng thần lạ lẫm này để bán cho họ. Tư Đồ Quát đã từng bảo rằng đây là một thị trường rất tiềm năng.
Nghe gọi, Tư Đồ Sảng cố hoàn tất bức vẽ thứ ba mươi rồi đi theo ả nữ tỳ.
Chàng bước vào phòng khách, nhận ra một nữ lang áo trắng xinh đẹp, tuổi độ đôi mươi, liền đoán rằng đấy là Bạch Ly, biểu muội thứ ba của mình. Chàng mơ hồ cảm giác rằng dung mạo kìa mình đã từng gặp qua, nhưng không sao nhớ nổi khi nào, ở đâu ?
Tư Đồ Sảng kính cẩn cúi chào cả nhà rồi đứng nghiêm chờ lệnh. Tư Đồ Lão Thái đặc biệt yêu mến cái gã trai giỏi giang, có nét giống trưởng tử của mình, nên đon đả nói :
- Tiểu hài tử ngồi đi ! Lão thân vốn không câu nệ bề bậc !
Tư Đồ Sảng vâng dạ rồi ngồi xuống chiếc ghế trống ngoài cùng. Chỗ uống trà của nhà họ Tư Đồ cũng giống như bao nhà khác, gồm những chiếc ghế dựa đặt theo hình chữ Khảm, ba cạnh vuông vức, trước mỗi ghế có kỷ gỗ thấp để đặt chén trà.
Bạch Ly không thể nào dời nhãn tuyến khỏi gương mặt cương nghị nhưng thuần hậu của chàng áo vải mộc mạc kia ! Thứ nhất là vì nó đẹp và đầy sức thu hút, hai là, sự giống nhau giữa hai sống mũi khiến nàng xao xuyến tự hỏi phải chăng duyên tiền định ? Nhị nương phát hiện ra ánh mắt kỳ lạ của con gái liền kéo áo nhắc nhở rồi giới thiệu nàng với Tư Đồ Sảng :
- Này hiền diệt ! Đây là Bạch Ly, con gái thứ ba của ta ! Phụng nhi đang gặp khó khăn ở cửa hàng, muốn nhờ hiền điệt giúp đỡ đấy ! Linh Hối Đạo trưởng đã bảo rằng ngươi là kẻ tài trí, có thể giải quyết được mọi vấn đề !
Tư Đồ Sảng ngượng ngùng đáp :
- Chẳng qua gia biểu thúc quá lời đấy thôi ! Nhưng nếu quí trang có gì cần sai phái, tiểu diệt nguyện tận lực thi hành !
Bạch Ly có vẻ hài lòng trước thái độ khiêm tốn ấy, dịu giọng kể lại nguồn cơn.
Tư Đồ Sảng nghe xong cau mày suy nghĩ một lúc lâu mới đáp :
- Bẩm Tam tiểu thư ! Tiểu nhân sẽ vào thành ngay, thử tìm cách nói chuyện với đám côn quang xem sao !
Tư Đồ Lão Thái lo lắng bảo :
- Sảng nhi chớ liều lĩnh mà nguy đấy ! Bọn chúng đã nhận tiền của nhà họ Vương thì chẳng dễ vì lời nói của ngươi mà bỏ cuộc đâu ! Hay ngươi cứ thử hỏi chúng xem có thể thương lượng với giá bao nhiêu ?
Tư Đồ Sảng cảm động gạt đầu :
- Xin Lão thái cứ yên lòng ! Tiểu tôn sẽ làm như lời người dạy.
Chàng đi rồi, Tư Đồ Lão Thái buột miệng khen :
- Nghe y xưng Tiểu tôn mà lòng ta ấm áp phi thường ! Giá như già này có được đứa cháu trai như y để kế thừa hương hỏa thì còn gì hạnh phúc nào bằng ?
Nhị nương ngập ngừng tiếp lời :
- Lạ thực ! Sao hài nhi ngày càng thấy Tư Đồ Sảng giống Đại ca một cách lạ lùng. Ánh mắt gã nhìn chúng ta cũng tràn ngập tình thương và hình như có điều muốn nói mà chẳng dám ?
Đại Tiểu thư Tư Đồ Huệ lên tiếng :
- Nội Tổ mẫu ! Năm xưa Tiểu tôn nữ từng nghe Đại Bá phụ thổ lộ ước nguyện lấy một người vợ cao lớn để con cháu đời sau thoát cảnh thua thiệt về kích thước cơ thể ! Nay Tư Đồ Sảng thân hình khôi vĩ, dung mạo lại khá giống Đại Bá phụ khiến Tiểu Tôn Nữ vô cùng nghi hoặc !
Tư Đồ Lão Thái cười nhạt :
- Huệ nhi chớ hồ đồ ! Nếu quả thực cái gã bất hiếu kia có được đứa con trai như Tư Đồ Sảng thì sao không dẫn về đây ra mắt ? Quát nhi phải biết rằng lão thân sẽ mừng cháu đích tôn mà bỏ qua mọi tội lỗi của gã cơ mà ?
Bà nói rất chí lý nên Tư Đồ Huệ không dám tranh cãi nữa !
Sáng hôm sau là mùng một tháng bảy, Tư Đồ Lão Thái theo thông lệ vào thành thắp hương ở Thiên Sư Đạo quán ! Bạch Ly muốn biết Tư Đồ Sảng đã làm như thế nào để giải quyết việc bọn côn quang quấy rối cửa hàng nên tình nguyện đánh xe đưa bà nội đi.
Nàng đến cửa hàng trên phố Tam Bình trước, thay vì rẽ vào Đạo quán. Bạch Ly vô cùng ngạc nhiên khi thấy bốn gã công sai mang đao, y phục chỉnh tề đứng trước cửa và vui vẻ, cung kính mời khách vào tiệm. Tất nhiên, chẳng có một mống côn đồ nào dám đến quấy rối cả !
Thấy Tư Đồ Lão Thái và Bạch Ly xuống xe, bốn gã ấy khom lưng thi lễ. Một gã mau mắn nói ngay :
- Bọn Tiểu nhân xin thỉnh an Lão thái và Tiểu thư ! Hôm qua, Đề Hình Án Sát Sứ Đại Nhân ở Tam Ty Phúc Kiến đã ra lệnh bắt sạch bọn côn đồ và người đích thân thăng đường tra hỏi. Bọn chúng bị đòn đau quá liền thú nhận đã lãnh tiền của lão Vương Vạn Thành để quấy rối việc kinh doanh của quí trang ! Chỉ trong nay mai là lão họ Vương chết tiệt ấy phải ra trước công đường thôi ! Án Sát Đại Nhân còn ra lệnh cho bọn tiểu nhân túc trực ở đây để đảm bảo an ninh cho quí hiệu !
Hai bà cháu nghe xong cứ ngớ người ra, chẳng hiểu ất giáp gì cả ! Vì sao một trong ba vị quan đầu tỉnh Phúc Kiến lại đích thân lo lắng cho việc buôn bán cửa một cửa hiệu nhỏ như thế ?
Bạch Ly dầy dạn thương trường, giả như đã biết rõ sự việc, vui vẻ bảo :
- Dĩ nhiên là một vị quan công minh như Án Sát Đại nhân phải xem trọng vương pháp, giữ gìn công đạo cho bách tính ! Bổn hiệu làm ăn chân chính tất phải được bênh vực ! Tuy nhiên đối với nhiệt tình của tứ vị thì bổn hiệu chẳng dám quên ơn !
Dứt lời, nàng móc hầu bao thưởng cho mỗi gã mười lạng bạc ! Bốn tên công sai ngần ngại không dám nhận dù bàn tay chỉ chực thò ra chụp lấy nén bạc hấp dẫn.
Cuối cùng, một gã nuốt nước bọt, hạ giọng năn nỉ :
- Bọn tiểu nhân xin nhận ân sủng của tiểu thư nhưng mong người đừng để lộ việc này ra ngoài !
Bạch Ly mỉm cười trấn an :
- Tứ vị cứ yên tâm ! Chút quà mọn này đâu đáng để bổn tiểu thư phải nhiều lời nói với ai làm gì !
Bốn gã mừng rỡ chia nhau nhét nhanh vào ngực áo rồi tiếp tục làm nhiệm vụ ! o0oNgay chiều hôm ấy, lão bá hộ Vương Vạn Thành cùng vợ sang Tư Đồ Gia trang quì lạy Tư Đồ Lão Thái, xin bà rủ lòng thương mà bãi nại. Lão thề rằng từ nay sẽ buôn bán ngay thẳng, không dám giở thủ đoạn cạnh tranh bất chính nữa !
Tư Đồ Lão Thái khoan khoái giáo huấn cho Vương Đại Thành một trận rồi hứa sẽ bỏ qua !
Vợ chồng họ Vương về rồi, Bạch Nương cho gọi ngay Tư Đồ Sảng lên hỏi vì chàng cũng vừa về đến.
Tư Đồ Sảng thản nhiên đáp :
- Bẩm tiểu thư ! Tiểu nhân nghĩ rằng còn có vương pháp bảo vệ nên chẳng tội gì mất tiền cho bọn côn đồ. Vì thế, tiểu nhân hỏi thăm rồi đến gõ cửa Tam ty trình bày sự việc ! Họ là bậc trung lương thương dân như con đẻ nên đã lắng nghe và mau mắn giải quyết.
Bạch Ly tức đến nổ đom đóm mắt, cười nhạt bảo :
- Cả thành Phúc Châu đều biết lão Đề Hình Án Sát Sứ họ Hoàng kia là tham quan, chỉ biết có vàng bạc chứ không biết đến lẽ công bằng. Phen này, dù chúng ta có bãi nại thì lão Vương Vạn Thành cũng phải mất ngàn lượng vàng mới yên thân ! Do vậy, bổn cô nương không tin ngươi dùng lời nói suông mà thuyết phục được lão ta !
Tư Đồ Sảng mỉm cười :
- Sao tiểu thư không nghĩ rằng lão tham quan kia đánh hơi được cơ hội móc hầu bao của Vương Bá Hộ nên mới sốt sắng thụ lý vụ này ?
Câu trả lời ấy rất chí lý khiến Bạch Ly cứng họng. Nàng cố gỡ gạc :
- Nhưng đúng lý ra lão ta cũng phải moi tiền của Tư Đồ Gia trang nữa mới phải đạo ! Trong bất cứ vụ kiện cáo nào thì bên nguyên và bên bị đều hao tài tốn của cả ! Không những thế, Hoàng Án Sát còn cho cả công sai Tam ty đến gác cửa cho bổn hiệu nữa. Việc ấy rất bất thường và không cần thiết ! Ta linh cảm rằng lão ta rất sợ ngươi thì phải.
Tư Đồ Sảng thầm khâm phục cơ trí của cô em họ nóng tính. Chàng tủm tỉm đáp :
- Tiểu nhân là kẻ quê mùa làm sao biết được cách hành xử của quan nha ?
Bạch Ly chưa chịu thua nhưng Tư Đồ Lão Thái đã can ngăn, khen ngợi công lao của Tư Đồ Sảng rồi cho chàng lui gót. Bà nhìn theo dáng đi của chàng mà lòng chợt bâng khuâng bởi những cảm xúc kỳ lạ !
Vài ngày sau, tai họa ập xuống đầu bách tính ngoại thành Phúc Châu. Ba mươi chiếc thuyền của bọn hải tặc Phù Tang (Nhật Bản) đã ngược giòng sông Mã, đánh cướp suốt từ cửa biển vào đến tận chân thành Phúc Châu.
Thủy quân và bộ binh Phúc Kiến tuy đông mà không sao ngăn chặn nổi bọn giặc lùn kiêu dũng, khát máu ! Chiến thuyền của chúng được trang bị cả đại pháo tối tân, có tầm bắn xa hơn Cổ Thần Công cổ lỗ của quân triều đình nên đã đánh tan tác đội thuyền của Thủy sư đề đốc Phúc Kiến.
Rốt cuộc, quân Minh phải rút vào thành cố thủ, đế mặc lê thứ ngoại thành cho bọn hải tặc hiếp đáp.
Sông Mân Giang chảy từ Tây sang Đông, khi gần đến thành Phúc Châu thì bị đảo Nam Đài phân thành hai dòng Ô Long Giang và Đài Giang. Sau đó cùng chảy vào sông Mã để ra biển. Thành Phúc Châu nằm ở Bờ Bắc sông Ô Long và Tư Đồ Gia trang cũng vậy !
Tiếng mõ, tiếng chiêng báo động vang rền đêm mùa hạ, khiến lòng người khiếp sợ và hoảng loạn !
Người trong Tư Đồ Gia trang tập trung cả ở sân giữa, chờ quyết định của Tư Đồ Lão Thái. Một là họ kéo cả lên núi Cổ Sơn trốn tránh, hai là đóng cửa cự địch !
Tư Đồ Xán thường xuyên vắng nhà nên Tư Đồ Lão Thái đã cho xây tường chung quanh cao đến hơn hai trượng và dầy ba gang. Cửa trang cũng rất kiên cố, trừ phi bọn hải tặc có dụng cụ phá thành mới mong vào được ! Tuy nhiên, không thể loại trừ trường hợp chúng vượt tường bằng những sợi dây có móc thép ở đầu và bọn cướp biển thì rất giỏi leo trèo !
Hơn trăm thợ thuyền giờ chỉ còn độ ba bốn chục vì số còn lại đã về nhà ngủ với vợ ! Dù họ có biết vài đường côn song không thể nào địch lại những tay kiếm Phù Tang gan lì và hiếu sát. Bởi vậy, mang đồ tế nhuyễn, vàng bạc chạy lên núi Cổ Sơn là hợp lý nhất.
Nhưng khổ thay, vốn liếng của Tư Đồ Gia Trang hiện tập trung cả vào hàng ngàn pho tượng còn dang dở và đống gỗ long não cao như núi. Bọn hải tặc không cướp được của, không giết được người tất sẽ phóng hỏa đốt nhà và họ Tư Đồ sạt nghiệp.
Tư Đồ Lão Thái nghẹn ngào nói :
- Lão thân quả là cô phúc, thất đức nên không bảo vệ được cơ nghiệp của nhà chồng, mặt mũi nào mà gặp họ ở chốn suối vàng ! Mọi người hãy lên núi trốn hết đi, để ta ở lại đây liều chết với bọn giặc lùn !
Nói xong, bà khóc òa lên và mọi người cũng khóc theo. Nhị nương nức nở :
- Nếu Mẫu thân không đi thì hài nhi cũng ở lại !
Tư Đồ Sảng nóng ruột bước đến điểm huyệt bà nội rồi nghiêm nghị bảo Bạch Ly :
- Nàng hãy trao bảo kiếm cho ta rồi cấp tốc cõng lão Thái và dẫn cả nhà lên núi ngay ! Ta xin thề rằng không có một tên cướp biển nào vào nổi nơi đây.
Giọng chàng sang sảng, đầy vẻ uy nghiêm khiến Bạch Ly sợ khiếp vía, mau mắn tuân lệnh.
Mọi người đi cả rồi, Tư Đồ Sảng gài chặt cổng lại, nhảy lên đầu tường ngồi đợi. Đã là giữa canh hai, trời tối đen vì chẳng có trăng sao. Mùa hạ ở Hoa Nam kéo dài từ tháng ba đến tháng bảy, nhiều mưa và đôi khi có bão. Đêm nay mây mù giăng mắc báo hiệu một cơn mưa chưa kịp đến.
Tư Đồ Sảng vuốt ve lưỡi thép lạnh, thầm tiếc rằng không có Giáng Ma Phủ lúc này. Trong cuộc hỗn chiến, cây búa ấy lợi hại hơn trường kiếm bội phần. Chàng cũng tiếc cả sự vắng mặt của thanh Từ Tâm Kiếm vì trọng lượng của nó rất vừa tay. Nhưng Tư Đồ Sảng đã phải gởi bảo kiếm lại Thiên Sư Đạo quán khi giả làm gã trai quê mùa đi tìm việc.
Chỉ nửa khắc sau là một toán hải tặc, đông độ gần trăm, cầm đuốc chạy đến. Chúng không biết thuật khinh công song cước bộ rất mau lẹ, nhẹ nhàng. Tư Đồ Sảng buông mình xuống đất đứng dựa tường vây, lòng thầm chua xót cho dân tộc mình. Người Hán lúc nào cũng vỗ ngực xưng là vĩ đại, văn minh, còn các dân tộc khác chỉ là bọn mán di mọi rợ ! Thế mà, suốt mấy trăm năm nay bọn cướp biển Cao Ly và Phù Tang cứ ngang nhiên dong thuyền vào nội địa cướp bóc rồi rút lui an toàn. Thỉnh thoảng mới có được một vị tướng tài giỏi huấn luyện binh sĩ, nên ngăn chặn được vài cuộc xâm nhập. Còn thường thì Nguyên soái chạy trước, ba quân rút theo sau !
Chàng chỉ ưu thời mẫn thế được bấy nhiêu thì bọn hải tặc đến trước mặt. Chúng xí xô xí xào, chỉ trỏ chàng và cánh cổng gia trang rồi ùa đến.
Có hai tên nhanh chân đi tiên phong, song thủ nắm chắc chuôi của thanh kiếm dài và hơi cong, dựng đứng trước mặt. Chúng hét lên những tiếng man rợ như uy hiếp tinh thần địch thủ.
Tư Đồ Sảng lướt ra nghênh chiến, bảo kiếm loang loáng dưới ánh đuốc gỗ thông của phe địch. Kiếm pháp Phù Tang chủ ở lực đạo, đòn chém nhiều hơn đâm và dùng cả hai tay nên khí thế rất mãnh liệt. Sư phụ Tư Đồ Sảng là Ly Giang Tiên Ông đã từng giảng giải cho chàng nghe những yếu quyết cơ bản của thứ kiếm pháp này.
Thép chạm thép vang rền và hai gã cướp biển rú lên ảo não, ôm ngực ngã gục đương trường ! Vài tên trong bọn còn lại giận dữ xông vào báo thù cho đồng đảng. Người Phù Tang rất nặng tình nghĩa huynh đệ, bằng hữu, sẵn sàng xả thân tức khắc, chẳng chờ đến ba năm mới phục hận như người Hán.
Nhưng chúng đã quá xui xẻo nên đụng phải một đại sát tinh Tư Đồ Sảng. Chàng vì món nợ của bách tính cả vùng này mà phóng tay chém giết bọn xâm lăng. Chàng biết rằng quanh đây có hàng ngàn gia đình đang bị cướp bóc, hãm hiếp và sát hại !
Tư Đồ Sảng thì triển Truy Tinh thân pháp, di chuyển như làn gió giữa hàng ngũ bọn hải tặc mà gieo rắc cái chết. Cánh tay dũng mãnh của chàng dễ dàng ngăn chặn đường gươm ác liệt của đối phương và thọc những nhát nhanh tựa vó câu qua khe cửa lấy mạng kẻ thù.
Thân thể chàng cao lớn, tay dài hơn bọn giặc lùn kia, nên mũi kiếm luôn chạm mục tiêu trước. Chỉ trong vòng hai khắc, Tư Đồ Sảng đã hạ sát gần ba chục gã hải tặc, càng khiến bọn chúng thêm điên tiết lăn xả vào. Đám cướp biển bắt đầu sử dụng đến ám khí là những thanh tiểu kiếm và những mảnh thép dẹp hình tròn, có răng nhọn hoắt.
Từ Đồ Sảng thản nhiên vung tả thủ chụp lấy hoặc đánh bạt ám khí đi, máu loang đầy bàn tay nhưng xương cốt không hề tổn hại. Khi chàng đạt được mười thành hỏa hầu của môn Khô Mộc Thần Công thì cả da thịt cũng rắn như gỗ, không thể bị thương bởi đao kiếm.
Tiếng kêu rên đau đớn hòa với tiếng thép hận thù làm náo động cả vùng núi Cổ Sơn, chắc là đã đến tai những người trên ấy. Cho nên, sau một bụi cây rậm rạp, cách đấu trường chừng bảy tám trượng, có một người đứng nấp mình xem, mắt phượng tròn xoe, môi run rẩy vì lo lắng. Bạch Ly đã xuống để xem an nguy của Tư Đồ Sảng.
Nàng đau lòng khôn xiết, nước mắt chảy ròng ròng khi thấy Tư Đồ Sảng vấy máu. Chàng đã thọ thương vì những đường gươm ám tập liều lĩnh của bọn cướp biển. Nhưng nàng biết mình có ra cũng làm vướng tay Tư Đồ Sảng mà thôi đành đứng im mà nức nở.
Tuy nhiên, Tư Đồ Sảng vẫn không tỏ ra đau đớn hay kiệt sức, đường gươm vun vút tựa giải lụa, liên tiếp đâm thủng cơ thể hàng chục tên chớp biển. Tổng cộng đã có hơn năm mươi xác người nằm la liệt trên bãi cỏ trước cửa Tư Đồ Gia trang.
Xa xa bỗng vọng lại tiếng cồng dồn dập, nhịp điệu lạ tai, có lẽ là tín hiệu rút quân của thủ lĩnh hải tặc ! Quả nhiên đúng vậy vì một tên trong đám đối thủ của Tư Đỗ Sảng quát vang và cả bọn nhất tề bỏ chạy.
Tư Đồ Sảng không đuổi theo, chống kiếm đứng nhìn mấy chục thi thể ở chung quanh và mùi máu tanh nồng nặc bỗng khiến chàng buồn nôn. Chàng tự hỏi mình đúng hay sai khi giết nhiều đến thế !
Chàng giật mình nhận ra Tam Biểu muội đang lao đến, vừa định mở lời chào hỏi thì đã bị Bạch Ly ôm cổ khóc vùi và trách móc :
- Sao ngươi lại phải liều mạng vì cơ nghiệp của Tư Đồ Gia Trang ? Ngươi là ai sao chẳng nói thực ra đi ?
Tư Đồ Sảng vỗ về tấm lưng ong mềm mại của nàng rồi cười bảo :
- Ta đã chết đâu mà nàng khóc lóc thảm thiết đến thế ? Vài vết thương nhẹ chẳng có gì đáng lo cả.
Bạch Ly chợt nhớ ra, buông cổ chàng rồi nói :
- Ta quên là ngươi đang bị thương ! Mau vào trong để ta băng bó cho !
Tư Đồ Sảng gật đầu, đề khí nhẩy lên đầu tường, nhẩy vào trong để mở cổng.
Đêm ấy, Tư Đồ Gia trang chỉ còn có hai người. Được Bạch Ly băng bó xong, Tư Đồ Sảng trở về căn phòng nhỏ trong xưởng mộc nghĩ ngơi. Chàng mệt mỏi vì cuộc chiến khốc liệt lúc nãy nên thiếp đi rất nhanh ! Từ ngày rời Thúy Phong Cốc đi Phúc Châu, chàng không còn mơ thấy hai ái thê hiện về nữa, lòng vô cùng thương nhớ.
Nhưng đêm nay may mắn thay, cố nhân lại đến trong mơ. Lăng Phi Tuyết nhìn chàng âu yếm nói :
- Tướng công ! Đã đến lúc không phải trở lại Lạc Dương rồi đấy ! Chàng phải thổ lộ lai lịch ngay trong buổi sáng mai vì hai con rể của Tư Đồ Xán sẽ mang hung tin về vào lúc xế chiều. Vả lại Lạc Dương sắp có sự cố lớn, cần chàng hiện diện.
Tư Đồ Sảng gật đầu, thò tay định kéo nàng vào lòng thì oan hồn biết mất.
Chàng chưa kịp ngủ lại thì mơ màng phát hiện có kẻ ngồi xuống thành giường. Tư Đồ Sảng mừng rỡ mở mắt ra, ôm lấy bóng trắng ấy mà hôn hít. Lăng Phi Tuyết có vẻ ngượng ngùng hơn thường lệ và e ấp khi dâng hiến.
Tư Đồ Sảng quen với cung cách giao hoan nhẹ nhàng, dịu dàng đưa ái thê lên đỉnh Vu Sơn. Những vết thương nơi lưng nhói đau chỉ làm cho cuộc mây mưa thêm dài. Hết hiệp, nữ nhân thẹn thùng mặc y phục rồi bỏ đi như thường lệ và Tư Đồ Sảng không dám lưu lại. Chàng mau chóng thiếp đi vì cảm giác thư thái, hạnh phúc.
Lúc bình mình, chàng thức giấc bởi tiếng cười rộn rã, người trong trang đã trở về.
Tư Đồ Sảng vội rửa mặt, thay áo rồi lên khách sảnh. Cả nhà đều có mặt. Tư Đồ Lão Thái thân thiết vẫy chàng lại ngồi ở ghế cạnh mình và vui vẻ bảo :
- Lão thân nghe Ly nhi kể rằng ngươi thần dũng như thiên tướng, một mình đương cự với hải tặc, giết được hơn năm chục tên, bảo toàn cơ nghiệp họ Tư Đồ ! Lão thân quyết định gả Ly nhi cho ngươi đấy ! Con nha đầu ấy cũng bằng lòng rồi ?
Tư Đồ Sảng vô cùng bối rối, chẳng biết phúc đáp thế nào cả ! Nhị nương cẩn thận hỏi han :
- Bát Tự Niên Canh của hiền diệt ra sao, thuộc chi nhánh nào của họ Tư Đồ vậy ?
Tư Đồ Sảng nghiêm nghị đáp :
- Bẩm nhị phu nhân ! Gia tổ tính danh là Tư Đồ Giáp, còn gia phụ là Tư Đồ Quát !
Cả nhà sửng sốt như bị sét đánh ngang tai, ngồi ngây ra tựa tượng gỗ. Trong lúc ấy, Tư Đồ Sảng rời ghế, quỳ xuống trước mặt Lão Thái khấu đầu lạy và run rẫy nói :
- Nội Tổ Mẫu ! Tiên phụ bị Nhị thúc đánh đuổi, đành phải rời Phúc Châu để tránh cho Tổ mẫu nỗi thương tâm trước cảnh huynh đệ tương tàn ! Nhưng dẫu sao Tiên phụ cũng là kẻ bất hiếu, không phụng dưỡng mẹ già ! Nay Tiểu tôn xin được thay người mà tạ tội !
Tư Đồ Lão Thái nghẹn ngào hỏi :
- Chẳng lẽ Quát nhi của lão thân chết thực rồi sao ?
Thấy chàng gật đầu, bà bật khóc :
- Tội nghiệp cho con trai ta ! Thế mà bao nhiêu năm nay lão thân cứ trách y vô tâm bạc hạnh ! Thì ra, tên khốn Tư Đồ Xán đã vì cơ nghiệp mà đuổi Quát nhi đi !
Tư Đồ Sảng quay sang lạy Nhị nương rồi nói :
- Nhị Thẩm ! Tiểu diệt về đây cốt để minh oan cho tiên phụ chứ chẳng phải vì gia sản ! Tiểu diệt xin nhường lại quyền thừa kế cho ba biểu muội, quyết chẳng nhận một xu !
Tư Đồ Lão Thái bác ngay :
- Không được ! Sảng nhi là cháu đích tôn phải được kế thừa cơ nghiệp họ Tư Đồ ! Ba con bé kia sẽ có phần của chúng !
Tư Đồ Sảng mỉm cười, an ủi bà :
- Nội Tồ mẫư ! Tiểu tôn hiện có đến cả trăm vạn lượng vàng, còn tranh giành với các em làm gì ?
Tư Đồ Lão Thái ngẩn người :
- Ngươi giầu đến thế ư ? Nhưng ngươi không làm ăn cướp đấy chứ ?
Tư Đồ Sảng ngượng ngập trước nụ cười của cả nhà, liền biện bạch :
- Tổ Mẫu chớ nghĩ oan cho Tiểu tôn như thế ! Tiểu tôn được Thiên Tử phong tước Trung Dũng Bá, Hàm Nhị Phẩm, đương chức Đại Lý Tự Thiếu Khanh, sao lại đi ăn cướp được !
Họ Tư Đồ không ai làm quan lớn nên lão Thái vô cùng sung sướng khi cháu đích tôn vinh hiển tột bực như thế ! Bà cười mãi không giấu nổi hàm răng đã mất vài chiếc.
Đại Tiểu thư Tư Đồ Huệ lên tiếng :
- Biểu ca làm quan lớn như thế bảo sao lão Án Sát Sứ họ Hoàng không sợ?
Sau đó, Tư Đồ Sảng kể lại chuyện quá khứ của song thân cũng như ân oán của mình ! Chàng yêu cầu người thân giữ kín mối quan hệ để được an toàn.
Cuối cùng, chàng tiết lộ cái chết của Tư Đồ Xán song họ khóc không nhiều, vì từ mấy năm nay lão đã trở thành người dưng, chỉ về nhà lấy vàng rồi lại đi ngay. Tính Tư Đồ Xán độc đoán và lạnh lùng, đối với vợ con chẳng chút tình cảm nên nỗi tiếc thương không lớn ! Nhất là khi họ biết Tư Đồ Xán đã nhẫn tâm đánh đuổi bào huynh để giành lấy gia tài !
Tuy là thế song Tư Đồ Lão Thái cũng rất thương tâm. Nếu không có nỗi mừng lớn lao là đứa cháu đích tôn anh hùng, quyền quí thì có lẽ bà đã lâm bệnh rồi ! Người đàn bà Trung Hoa sợ nhất là Tông Mạch bên chồng bị gián đoạn nên việc có cháu trai là niềm vui lớn lao nhất đời lão Thái !
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...