Hắc Bạch Hương Hồ Ký

Ngay chiều hôm ấy, Chu Tam đã sang dinh tổng binh để ở với Chu Hải. Gã hẹn sáng mai sẽ đến rước Tư Đồ Sảng cùng đi Bắc Kinh, với sự hộ tống của ngàn quân giáp kỵ. Chu Tam vẫn giấu kỹ lai lịch, chỉ nói thác Chu Hải là em bà con cô cậu ruột.
Tư Đồ Sảng chẳng hề nghi ngờ gì cả. Nhưng tối hôm ấy, tiểu nhị Trần Lục đã đến phòng chàng, khai rõ việc Chu Tam là hoàng tử của Đại Minh. Họ Trần vì tò mò mà rình nghe cuộc nói chuyện giữa Chu Tam và ngài tổng binh.
Tư Đồ Sảng chẳng xem việc bị Chu Tối Hậu dối gạt là quan trọng nhưng quyết định rời xa gã. Chàng là kẻ quê mùa nơi chân núi Cửu Tuấn, chẳng nên quan hệ với bậc quyền cao chức trọng làm chi.
Do đô, sáng hôm sau, Tư Đồ Sảng đã bảo Chu Tam cứ đi trước. Chàng sẽ ở lại Bảo Định để tìm quen mà hỏi tung tích Mạc Clúêu Hương. Chu Tam có ý không hài lòng, bắt chàng hứa là sẽ ghé thăm gã khi đến Bắc Kinh. Địa chỉ mà gã viết cho chàng cũng ccó chiêu bài Chu Gia Trang song chưa chắc đã là nhà của gã. Hoàng tộc nhà Minh ở kinh sư rất đông, toàn là họ Chu cả.
Chu Tam đi rồi, Tư Đồ Sảng lên phòng tĩnh tọa hành công để bồi bổ số chân khí đã hao hụt trong trận chiến khốc liệt hôm qua.
Xế trưa, Tư Đồ Sảng trả phòng, rời thành Bảo Định vì đã nhận được báo cáo của đệ tử Hắc Hiệp Hội. Họ đã truy lùng khắp thành và khu phụ cận mà không hề thấy mẹ con Mạc Chiêu Hương.
Đầu giờ thân, Tư Đồ Sảng lên thuyền vượt sông Dịch Thủy. Gió bấc lạnh lùng mang theo những bông tuyết thổi vào mặt chàng. Hồi tưởng đến cảnh Kinh Kha sang Tần, từ biệt Thái Tử Đan ở chốn này, Tư Đồ Sảng cảm khái ngâm nho nhỏ:
Phong phiêu phiêu hề!
Dịch Thủy hàn
Tráng sĩ nhất khứ hề!
Bất phục phản!
Bài thơ bi tráng này đã sống mãi trong lòng hậu thế, nhất là những kẻ sắp dấn thân vào hiểm địa.
Nhưng Kinh Kha vào Nam để sang Tây, còn chàng thì ngược Bắc. Và cánh rừng bên kia bờ không hề có phục binh, dù Tư Đồ Sảng đã uổng công đề phòng. Có lẽ khi biết Tam hoàng tử được quan quân hộ tống hồi kinh, Hải Hoa Bang đã bỏ cuộc.
Rời bến sông được một đoạn, Tư Đồ Sảng chợt thấy một lão thợ săn đang từ hướng Bắc đi ngược xuống. Trên vai lão là chiếc đinh ba treo lủng lẳng hai con thỏ xám, còn tay nữa thì xách chiếc lồng tre, trong nhốt một con vật lông trắng.
Trước chàng còn có vài kỵ sĩ nữa nhưng chẳng phải khách giang hồ. Họ bình an đi qua lão thợ săn song đến lượt Tư Đồ Sảng thì con vật trong lồng tre bỗng rít lên lanh lảnh, âm điệu bi thương như đang cầu cứu vậy.
Tư Đồ Sảng sinh trưởng chấn núi rừng, từ nhỏ đã được từ mẫu dạy cho bẫy thú. Do đó, giờ đây chàng biết ngay đó là tiếng kêu của loài chồn hương đang sập bẫy.
Không hiểu sao Tư Đồ Sảng lại rùng mình, lòng đầy bất nhẫn. Mẹ chàng cũng như hàng trăm người đàn bà nông thôn quê mùa khác. luôn tin vào những chuyện thần tiên, ma quái. Bà đã thả tất cả những con chồn con cáo mà chàng bắt về và giải thích rằng:
- Chồn cáo là loài vật cực kỳ thông linh, có thể tu luyện mà thành tiên! Sảng nhi đừng bao giờ hại chúng!
Tư Đồ Sảng bồi hồi, xao xuyến, quay ngược lại bảo lão thợ săn:
- Này lão trượng! Tiểu điệt muốn mua con chồn trắng kia!
Lão nheo mắt ngắm nghía chàng rồi nói:
- Loài chồn hương lông trắng rất hiếm nên giá rất cao. Chỉ sợ công tử chê mắc đấy thôi!
Biết lão tham tiến, chàng vui vẻ nói:
- Xin lão trượng cứ ra giá!
Lão thợ săn ngập ngừng nói:
- Năm lượng bạc không bớt!
Tư Đồ Sảng xuống ngựa, móc hầu bao đưa cho lão ta nén bạc mười lượng và nói:
- Xin tặng cả cho đại thúc!
Lão thợ săn vừa mừng vừa nghi hoặc, đưa nén bạc lên cắn thử. Biết là của thực, lão trao lồng tre rồi tất tả đi ngay, chỉ sợ chàng đòi lại.
Tư Đồ Sảng ngồi ngắm con chốn nhỏ xinh đẹp một lúc rồi nói với nó:
- Hồ ly cô nương! Ta sẽ thả nàng về rừng xanh, sao này phải cần thận, đừng để mắc bẫy nữa.
Nói xong. chàng mở cửa lồng để giải phóng con vật. Nào ngờ nó không chạy đi ngay mà phóng lên vai, liếm mặt chàng vài cái rồi mới chịu lao vào rừng.
Tư Đồ Sảng ngẩn người lẩm bẩm:
- Chẳng lẽ mẫu thân nói đúng! Nếu không phải hồ ly tinh thì sao nó lại thông linh đến thế!
Chàng bật cười, nhảy lên ngựa, ra roi phi nước đại.
Trưa hôm sau, Tư Đồ Sảng đến huyện Tịnh, ghé vào phạn điếm dùng cơm. Chàng rất ngạc nhiên khi thấy nơi đây tập trung khá nhiều khách võ lâm. Chàng hiếu kỳ lắng nghe câu chuyện của họ, lát sau mừng rỡ thở phào vì đã biết Mạc Chiêu Hương hiện đang ở đâu.
Té ra là, Mạc Lão Thái trước khi xuất giá mang họ Bàng và bà có một bào đệ tên Bàng Đạo Trí, hiện là thủy sư đồ đốc ở thành Trực Cô.
Bàng đề đốc thấy cháu gái chưa chồng liền tổ chức một lôi đài tỷ võ chiêu phu, khai mạc vào ngày hai mươi hai tháng mười một này. Điều kiện tham gia là nam nhân tuổi không quá ba mươi và chưa vợ.
Tư Đồ Sảng nghe được tín này bâng khuâng ngơ ngẩn như kẻ vừa đánh mất một vật quý giá. Giờ đây, Chiêu Hương sắp lên xe hoa, gá nghĩa với một bậc anh hùng đất Bắc nào đó thì chàng còn tìm kiếm làm gì nữa! Và phải chăng đó là sự an bày tốt nhất cho cả hai.
Chàng buồn bã định xuôi Nam ngay, trở lại Thúy Phong Cốc với hai người vợ rộng lượng, song lòng chàng chợt bừng lên nỗi khát khao là được gặp mặt Mạc Chiêu Hương một lần cuối. Dẫu sao thì chàng cũng chẳng còn cách Trực Cô bao xa.
Và để tâm hồn kẻ sắp sang ngang được yên bình, Tư Đồ Sảng sẽ giấu mặt bằng mặt nạ. Nghĩa phụ Tây Mởn Giới tặng chàng đến ba chiếc, đã dùng hết hai, còn lại một. Hài lòng với chủ ý này, Tư Đồ Sảng rời quán cơm, sau khi hỏi thăm đường đi Trực Cô. Gã tiểu nhị đã nói rằng không có quan đạo nối Trịnh Thành với Trực Cô mà chỉ toàn là đường nhỏ lối mòn. Do đó, Tư Đồ Sảng đã đi theo bọn hào kiệt Hà Bắc để khỏi lạc đường.
Đoàn người đi về hướng Đông, vượt sông Tiểu Lý Hà để đến trấn Cố An vào buổi chiều và nghỉ lại mờ sáng họ khởi hành, vượt trấn Tây An, rồi băng rừng lội suối để đến kịp Trực Cô khi trời chưa tối.
Hành trình này khá gian khổ vì tuyết rời nhiều, trời lạnh thấu xương và đường sá thì lầy lội, trơn trượt.
Trước khi vào thành, Tư Đồ Sảng thận trọng mang mặt nạ để có dung mạo của một gã tam tuần khá đẹp trai, râu mép rậm rì. Không những mặt mũi thay đổi mà tính danh của chàng cũng thế. Mỗi chiếc mặt nạ của Tây Môn Giới đều đi kèm với một thẻ đinh hợp lệ, đã đóng đủ thuế. Có thể là giấy giả nhưng chẳng khác gì giấy thật. Bởi vậy, giờ đây Tư Đồ Sảng sẽ mang cái tên Tư Mã Khôi, hai mươi bẩy tuổi, quê quán Bảo Định.
Tư Đồ Sảng nghỉ một đêm ở lữ điếm, sáng ra tìm cách liên hệ với Hắc Hiệp Hội. May thay, chàng chỉ cần đi vài chục trượng dã phát hiện ám ký trên tấm bảng chiêu bài của một tòa trang viện cố kính rộng lớn, mang tên Địch Gia Trang.
Trang chủ Địch Hùng, sáu mươi tuổi chính là phân hội chủ thành Trực Cô. Không ai có thể ngờ rằng một thương nhân đáng kính như Địch Hùng lại từng là đạo tặc vùng Tứ Xuyên, và giờ đây đang chỉ huy một mạng lưới trộm cắp đông đến hàng trăm tên.
Địch lão vui vẻ đón tiếp tuần sứ, và cho gia nhân đến lữ quán lấy ngựa cùng tay nải của thượng cấp.
Tư Đồ Sảng đến đây ở để có chỗ ôn luyện quyền thuật. Dù sáng nào chàng cũng múa pho Du Long Quyền như là một cách tập thể lực nhưng chưa bao giờ dùng nó mà chiến đấu. Quyền cước là nền móng của võ thuật Trung Hoa song không lép vế trước phép sử dụng các loại vũ khí. Thịt xương con người rất dễ bị thương tên.
Từ thời thượng cổ, nhân loại đã hiểu rằng cần có một cây chùy đá, một đoạn gỗ chống lại ác thú. Các cuộc chiến tranh cũng được tiến hành bằng khí giới chứ chẳng phải là nắm đấm.
Cũng chính vì nhận ra nhược điểm của quyền thuật, người ta đã sáng tạo ra khí công để thân thể bền chắc hơn. Và để tăng khả năng sát địch, Phách Không Chưởng đã ra đời. Tuy nhiên, công phu này khiến người võ sĩ rất hao tổn chân nguyên, đưa đến tổn thọ, nên ít ai muốn luyện, trừ những kẻ hiếu danh, đầy tham vọng.
Thầy chùa và đạo sĩ nhạt mùi danh lợi nên pho Du Long Quyền của núi Cổ Sơn không bao hàm Phách Không Chưởng. Nó thuần túy gồm những thế thức của tứ chi.
Tư Đồ Sảng là người chí hiếu, không vì công dụng mà xem trọng tuyệt kỹ đánh búa của mẹ hơn nghề quyền cước của cha. Chàng luôn khổ luyện song song cả hai thứ để an ủi vong hồn phụ mẫu. Vả lại, pho Du Lóng Quyền pháp có khá nhiều thế thức thi triển bằng tả thủ, giúp Tư Đồ Sảng tương đối tạo được sự quân bình giữa hai cánh tay.
Hữu thủ của chàng quen múa thanh Giáng Ma Phủ nặng đến hai chục cân, tất nhiên phải nở nang, to lớn hơn tả thủ. Cho nên, ngoài việc tập quyền pháp, Tư Đồ Sảng còn phải múa búa bằng tay trái để cơ thể đỡ xấu xí vì mất cân đối. Hai cô ả họ Lăng thường chọc ghẹo chàng về khuyết điểm nảy.
Trong suốt ba ngày mười chín, hai mươi, hai mươi mốt. Tư Đồ Sảng chỉ chuyên luyện quyền cước, tìm cách phối hợp những chiêu thức trong pho Du Long Quyền với cách di chuyển của Trung Tinh Bộ Pháp. Chàng sung sướng nhận ra rằng pho Tường quyền gia truyền đã trở nên lợi hại hơn trước. Kiếm đạo chính là đỉnh cao của võ đạo nên Tư Đồ Sảng có thể điều hòa những điểm không tương đồng giữa hai tuyệt học, biến làm một.
Nhưng Tư Đồ Sảng luyện quyền để làm gì? Phải chăng chàng định thượng đài để giành lấy Mạc Chiêu Hương. Đây là vấn đế tâm lý khá phức tạp của tuổi thanh niên, khó mà phân tích cho rạch ròi được. Tư Đồ Sảng đã tự nhủ rằng mình cứ chuẩn bị chu đáo nhưng sẽ tùy theo sắc diện của Mạc Chiêu Hương mà hành động. Nếu nàng thực sự vui với cuộc tỷ võ chiêu phu này thì chàng sẽ không thượng đài, lặng lẽ quay về Lạc Dương. Bằng ngược lại, chàng sẽ tham gia để đền đáp ân tình của nữ nhân.
Sáng hai mươi hai tháng mười một, Tư Đồ Sảng lững thững đi theo đám đông để đến dinh Bàng đề đốc ở góc Đông Nam thành Trực Cô.
Tuyết rơi nhiều, gió bấc từ bán đảo Liêu Đông thổi về ào ạt, khiến ai nấy đều co ro trong áo ngự hàn. Nhưng giá lạnh không làm nguội được lửa lòng của những chàng trai võ dũng đất Hà Bắc.
Qua những bộ mũ áo lông cừu thượng hạng, người ta có thể nhận ra không ít cao thủ xuất thân quyến thế, đến từ Bắc Kinh. Đế đô cách Trực Cô chỉ hai ngày đường, trong khi thông báo mở lôi đài đã dán khắp nơi cách nay cả tháng trời.
Khi đến nơi, mọi người khoan khoái vì nhận ra mảnh sân gạch rộng mênh mông của dinh đề đốc đã được che kín bầng vải buồm. Bàng Đạo Trí là chỉ huy cao nhất của lực lượng thủy quân miền Bắc, thống lĩnh bảy tám trăm chiến thuyền nên chẳng thiếu vải buồm.
Không phải vải cũ rách mà là thứ mới, chưa dùng đến, mượn của xưởng đóng thuyền ở cửa biển Ni Cô. Xưởng này được xây dựng từ thời Bấc Tống đến thời Minh thì quy mô càng lớn hơn.
Giữa giờ thìn, số người đến xem lôi đài đã lên đến hơn ngàn, nói cười râm ran, bàn luận về nhan sắc của Mạc tiểu thư. Kẻ thì vỗ ngực tự xưng rằng mình đã từng gặp qua người con gái có nhan sắc tiên nga ấy, kẻ thì tỏ ý nghi ngờ vì nghe nói nàng ta đã gần tam thập.
Tư Đồ Sảng nhanh chân chiếm được vị trí khá gần tòa mộc đài cao nửa trượng, đứng ngắm hai câu liễu trên cột lôi đài mà nhớ đến chàng trai ít học Triển Phi Hoan.
Nhưng nếu hôm nay gã có mặt ở đây chắc cũng chẳng gặp khó khăn vì hai câu đối này dược viết bằng lối chữ khải thư.
Khải thư xuất hiện cuối đời Hán và lưu hành cho đến nay. Do dạng chữ ngắn, nét bút thẳng, được xem là chuẩn mực, nên khải thư còn được gọi là chính thư chân thư. Rất nhiều nhà thư pháp của các thế hệ đã nổi tiếng nhờ loại chữ này.
Tư Đồ Sảng gật gù đọc thầm đôi liễu:
"Quyền đã thanh long cước hàn
Bạch hổ anh hùng xuất tự thiếu niên
Nhãn như thu thủy nhan tự
Đào hoa mỹ nhân tiếu đắc phu quân".
Chàng thoáng bâng khuâng, tự hỏi Chiêu Hương có cười được chăng khi lấy chồng bằng cái cách kỳ dị này?
Nam nữ kết đôi phải có tình yêu, sự cảm thông, chứ sao lại dựa vào võ nghệ? Liệu một kẻ vai u thịt bắp, giỏi nghề quyền cước nhưng bất thông tình lý đầu ốc bã đậu, có thể là một người chồng tốt hay sao?
Tiếng đàn sáo vang lên báo hiệu sự xuất hiện của chủ nhà. Bàng đề đốc oai phong trong bộ quân phục võ thương, chậm rãi bước lên cầu thang gỗ. Ông ta tuổi độ năm mươi, thân hình tráng kiện, râu cằm đen nhánh và dài đến ngực, mắt sáng, diện mạo hồng nhuận, phương phi.
Theo sau Bàng Đạo Trí là Mạc Lão Thái và Mạc Chiêu Hương. Cử tọa reo hò ầm ĩ, suýt xoa tán thưởng nhan sắc chim sa cá lặn của Mạc tiểu thư. Nàng kiều diễm phi phàm và trẻ như gái đôi mươi khiến bọn nam nhân không tin vào mắt mình, hoặc cho rằng người ta đã ghi lộn tuổi nàng trong thông báo.
Chiêu Hương còn đẹp hơn những gì mà vế liến thứ hai đã ca ngợi. Ngoài đôi mắt phượng trong như hố thu, dáng mặt hồng tựa hoa đào, sóng mui dọc dừa và đôi môi chín mọng của nàng cũng bội phần thanh tú và duyên dáng.
Hôm nay, Chiêu Hương gọn gàng trong bộ võ phục xanh, áo cừu khoác hờ, không khép vạt, nên đồi ngực kiêu hãnh và vòng eo thon thả đã làm bỏng mắt bọn đàn ông.
Tư Đồ Sảng đỏ mặt nhớ lại rằng mình đã từng vuốt ve thân hình nõn nà, khêu gợi ấy mà không biết.
Bàng đề đốc sang sảng giới thiệu chị và cháu gái rồi nói sơ mục đích cũng như quy củ của lôi đài. Sau đó, ba người chào cử tọa rồi về ngồi trên những chiếc ghế dựa ở mạn cuối mộc đài.
Tư Đồ Sảng bồi hồi thương cảm vì nhận ra ánh mắt u buồn của cố nhân. Nàng mỉm cười với cử toạ nhưng nhãn thần thờ ơ lạnh lẽo, chẳng chút niềm vui
Việc điều khiểu lôi đài được giao cho người vừa bước lên. Gã ta chính là Huyết Báo Liễu Mộ Hào.
Tư Đồ Sảng không ngạc nhiên vì đã nghe phân hội chủ Hắc Hiệp Hội ở Trực Cô, là Địch Hùng báo lại việc Mộ Hào vào dinh đề đốc đã gặp mẹ con Chiêu Hương. Nhưng tiếc rằng thông báo chiêu phu đã phát ra, không thể thay đổi được nữa. Huyết Báo đành ngậm ngùi nhận việc, cố giúp cho lương duyên của sư muội được vẹn toàn.
Tất nhiên, gã chẳng thể vui vì đã phụ lòng kỳ vọng của Tư Đồ Sảng. Hơn nữa, gã rất muốn sư muội mình trở thành vợ chàng, để gã có điều kiện gần gũi sư nương mà phụng dưỡng. Bà đã nuôi đay gã suốt cả một thời niên thiếu.

Huyết Báo hắng giọng rồi lạnh lùng nói với cử tọa:
- Kính cáo chư vị anh hùng! Thể thức tranh tài của bổn đài rất đơn giản. Trong ba ngày bất cứ cao thủ nào thắng liền bẩy trận và đả bại luôn cả Mạc tiểu thư thì sẽ trở thành chú rể. Sau mỗi trận, người thắng được quyền nghỉ ngơi hai khắc.
Hầu hết những kẻ rắp ranh bắn sẻ đầu đều la làng, phản đối điều kiện khắc nghiệt kia. Đấu liền tám trận là một việc chẳng dễ dàng chút nào cả.
Ai đó bực bội quát lớn:
- Mẹ kiếp! Sức người chớ nào phải sức trâu, nghỉ ngơi hai khắc thì nào thấm thía gì.
Huyết Báo chưa kịp có ý kiến thì một người khác đã cao giọng, hùng hổ nói:
- Tám trận thì có gì đáng kể! Bổn công tứ cho rằng như thế là vô cùng hợp lý! Các ngươi mau nhường đường để lão phu thướng đài, hiển lộng thần oai!
Cái giọng oang oang, rè rè kia rất quen với Tư Đồ Sảng. Chàng giật mình nhìn quanh để tìm Triển Phi Hoan song chẳng thấy đâu. Gã quá lùn nên bị người chung quanh che lấp mất.
Nhưng rồi hàng người duỗi ra, và họ Triển nghênh ngang trèo lên lôi đài. Hôm nay Phi Hoan mặc võ phục bằng gấm nâu, vai khóạe áo choàng lông trắng, trông rất diêm dúa và kệch cớm.
Quần hùng cười ồ lên chế giễu chàng trai thiếu thước tấc và lại to ngang đến mức dị kỳ:
- Con bà nó! Gã này may ra chỉ cao đến vú người đẹp, thực là thuận lợi!
Mọi người thấm ý phá lên cười hô hố. Huyết Báo bực bội vô cùng, phát ra những âm thanh chối tai, áp đảo cả tiếng cười thô lễ của khán giả:
- Kẻ nào dám buông lời bất nhã với tiểu thư sẽ bị tống cổ ra ngoài!
Đám thanh niên chợt nhớ ra đây là dinh thự của ngài thủy sư đề đốc, liền ngậm miệng, chẳng dám mỉa mai, giễu cợt nữa.
Triển Phi Hoan nhìn Huyết Báo với ánh mát tri ân rồi vòng tay tự giới thiệu:
- Tại hạ là Triển Phi Hoan, hai mươi chín tuổi, quê quán Tứ Xuyên, chưa vợ!
Nào ngờ Liễu Mộ Hào cau mày hỏi lại:
- Sao ngươi không đi Lạc Dương mà lại tới đây làm chi? Mau hạ đài ngay!
Họ Triển nhăn nhó biện bạch:
- Tiểu đệ đã đi được một quảng đường nhưng chẳng mặt mũi nào mà gặp công tử nên đành quay lại đây.
Và gã hý hửng hạ giọng:
- Tiểu đệ đã nghĩ ra một thần mưu diệu kế thật phi thường, cả Gia Cát Lượng cũng phải phục lăn. Nghĩa là tiểu đệ sẽ đả bại tất tả, mang Mạc Chiêu Hương về Lạc Dương cho công tứ. Đại ca thấy tiểu đệ có giỏi không?
Liễu Mộ Hào tức đến chẹn họng, mặt tái xanh. Còn đám hào kiệt đứng ở hàng đầu thì la ó nhao nhao phản đối. Bàng đề đốc quát bảo:
- Làm gì có chuyện thượng đài tỷ võ giùm kẻ khác. Ngươi không muốn cưới vợ thì xuống để người khác lên.
Triền Phi Hoan quýnh quáng thét lên:
- Không! Không! Ta muốn vợ thực mà! Ta chỉ nói gạt họ Liễu thế thôi!
Tuy nói thế nhưng mắt gã nháy nhó lia lịa, ra dấu với Huyết Báo. Liễu Mộ Hào chợt cảm động trước lòng trung thành của gã quái nhân họ Triển mà thức ngộ rằng có thể đây là giải pháp tốt nhất, tuy hơi khó coi.
Huyết Báo giả vờ tức giận, cười nhạt bảo:
- Thôi được! Tất nhiên ngươi cũng có quyền cưới vợ!
Và gã cao giọng tuyến bố:
- Triển Phi Hoan đủ tư cách thượng đài, mời anh hùng thứ hai lên cùng y tỷ thí.
Triển Phi Hoan đắc ý cởi áo choàng, xếp lại cẩn thận và đặt xuống chân cột ở góc Đông Nam lôi đài.
Từ ngày theo phò Tư Đồ Sảng, họ Triển thoát cảnh đói nghèo, có tiền sắm sửa y phục bằng gấm lụa thượng hạng. Những gã rất trân trọng tài sản của mình, chẳng hề hoang phí.
Giờ đây, bộ võ phục gấm nâu làm nổi bật những bắp thịt nở nang và tấm lưng rộng như cánh phản của Phi Hoan. Quần hào tắm tắc khen thầm vẻ oai phong ấy, quên đi khuyết điểm về chiều cao.
Phi Hoan được dịp dương oai diễu võ trơức mặt đám đông, cao hửng trụ tấn rồi gồng người để khoe khoang cơ thể rắn chắc, đầy sức mạnh.
Vẻ kênh kiệu của gã đã khiến một cao thủ trẻ tuổi đất Bắc Kinh nóng mũi nhẩy lên lôi đài. Chàng ta tự giới thiệu mình tên Bách Lý Phương, hai mươi ba tuổi được giới võ lâm Hà Bắc tặng cho mỹ híệu Thần Quyền Vô Địch.
Bách Ly Phương cũng rất vạm vỡ và cao hơn Triển Phi Hoan gần hai gang tay. Gã có dung mạo hơi thô, mắt lộ, mũi tẹt lông mày chổi xể rậm rì.
Sự chênh lệch khá lớn này đã khiến một vị khán giả tỏ ý lo ngại:
- Này Bách Lý lão đệ! Ngươi hã ycố mà bảo vệ đoản thương của mình nhé. Ta thấy gã họ Triển đang nhìn đũng quần của người với ánh mắt đầy sát khí.
Cử tọa khoái trá cười dài trước câu nói hoạt kê này. Nhưng Phi Hoan quê mùa, chất phác, nên không hiểu tiếng lóng, trợn mắt quát mắng Bách Lý Phương:
- Tiểu tử kia! Đài quy đã cấm không được sứ dụng vũ khí, sao ngươi lại dám lén giấu đoản thương trong quần. May mà vị huynh đài tốt bụng kia nói ra, không thì bổn công tử đã bị ám toán rồi. Ngươi có mau lấy thương ra rồi tạ lỗi với mọi người hay chăng?
Tiếng cười của cả ngàn người cất lên làm rung chuyển cả những tấm bạt vải buồm căng trên đầu họ. Cả Bàng đề đốc lẫn mẹ con Mạc Lão Thái cũng cười ngất nghẽo. Riêng Bách Lý Phương ôm bụng ngã lăn xuống sàn lôi đài, cười bò lăn bò càng.
Huyết Báo chán nản bước đến bảo họ Triển:
- Sao ngươi lại ngu đến mức ấy cơ chứ! Người ta nói: "đoản thương" là ám chỉ cái khúc thịt trong đũng quần của đàn ông đấy.
Triển Phi Hoan thẹn chín người, lẩm bầm chửi rửa cái gã đã biến mình thành trò cười. Gã bối rối đứng cúi gầm mặt, chẳng biết phải làm sao. May thay, Huyết Báo đã vỗ tay, ra hiệu cho hai bên động thủ.
Bách Lý Phương vẫn còn cười, xua tay bảo:
- Tại hạ tức cười đến nông ruột, làm gì còn khí lực mà đấu nữa?
Nói xong, gã loạng choạng rời lôi đài vừa đi vừa khúc kha khúc khích, không sao nín nổi.
Liễu Mộ Hào thản nhiên tuyên bố:
- Bách Lý Phương bỏ cuộc nên Triển Phì Hoan xem như thắng trận này! Xin mời người thứ hai.
Lập tức có một chàng trai võ phục lam nhẩy lên, xưng là Kiêu Hổ Dương Tứ Bích, hai mươi lăm tuổi, quê quán Đường Sơn, một huyện nằm phía bắc Trực Cô, cạnh bờ biển Bột Hải.
Lần này chẳng có ai phá đám nên cuộc chiến diễn ra ngay. Kiêu Hổ xuất thủ trước tấn công bằng một đường quyền vô cùng dũng mãnh và đẹp mắt, đáp vào mặt và ngực của Triển Phi Hoan.
Họ Triển tuy thấp lùn song hai cánh tay lại dài bằng người bình thường, khiến gã có dáng dấp của một con dã nhân. Nhưng trong quyền thuật thì đấy lại là một lợi thế. Gã chỉ cần khẽ rún người xuống là né được đường quuyền, rồi vươn hữu thủ gạt đòn chân của đối phương.
Đôi tay họ Triển to đùng và rắn như thép khiến chân Dương Tứ Bích bị đau, mặt nhăn như khỉ. Họ Dương vội tung chân kia đá vào mặt Phi Hoan. Kiêu Hổ ra đòn như vũ bão, thi thố hết sở học để khoe tài với mỹ nhân và cử toạ. Khổ thay, Phi Hoan chẳng hề bối rối ung dung chống đỡ, vững chắc tựa tường đồng vách sắt.
Khán giả vô cùng khâm phục, hoan hô ầm ĩ và đốc thúc họ Triển phản công.
Phi Hoan đắc ý gật đầu, xông vào đối thủ, song quyền vù vù xé gió, uy hiếp hạ bàn Họ Dương, từ ngực đến đầu gối.
Muốn chống trả, Dương Tứ Bích bắt buộc phải hạ tấn xuống thấp hơn bình thường, vừa dễ mỏi chân vừa không vững, nên khi va chạm thân hình bị chao đảo.
Trong quyền thuật, các thế tấn chính lộ căn bản và có vai trò rất quan tâm. Tấn không chắc thì đường quyền, ngọn cước đều kém uy lực và khi đối phương phản kích thì rất dễ bị đẩy lùi.
Hôm nay, Dương Tứ Bích xui xẻo rơi vào tình trạng bất lợi là phải đối phó với một kẻ chỉ đứng đến vai mình. Gã phải choãi chân rộng ra, rùn người xuống thật thấp thì mới bảo vệ được hạ bàn. Tuy đài quy cấm đánh vào chỗ kín nhưng họ Dương vẫn nơm nớp lo sợ cho của quý. Ai dám bảo đảm rằng gã lùn kia không lỡ tay, lỡ chân, làm tan nát đời đàn ông của dương công tử?
Nhưng dù cho Tứ Bích không rơi vào thế bất lợi vì chiều cao thì cũng không thể địch lại Triển Phi Hoan. Họ Triển thần lực hơn người, đường quyền mạnh như búa bể, khiến xương cốt tứ chi của Tứ Bích bị đau đớn và ê ẩm.
Gã lùn lại có đấu pháp cực kỳ cương mãnh, liều lĩnh. Gã ta cứ hùng hục xông đến, để lộ hàng tá sơ hở mời gọi họ Dương. Kiêu Hổ chẳng hề khách sáo, tặng cho đối phương vài quyền và có cảm giác đã đánh vào bị cát bằng da trâu chứ chẳng phải thân người. Nhưng khi Phi Hoan đáp trả họ Dương một đòn vào ngực thì chàng trai đất Đường Sơn đau thấu trời, thiếu điều nín thở, văng ngược về phía sau vài bước.
Tuy đã ngao ngán đến tận cổ mà Dương Tứ Bích cũng cứ cố cầm cự, sợ mất mặt với người đẹp và giới võ lâm Hà Bắc.
Trong khi ấy, Triển Phi Hoan tiếp tục đấu pháp chịu đấm ăn xôi, đánh cho Tứ Bích tơi bời hoa lá. Tiếng quyền cước chạm da thịt vang lên liên tục và cảnh song phương trúng đòn đã khiến cứ tọa vô cùng phấn khích, hoan hô quá cỡ. Tất nhiên là họ tán dương Triển Phi Hoan, kẻ có ngoại công thâm hậu, đang giành được thế thượng phong.
Kiêu Hổ Dương Tứ Bích vì tự ái và thanh danh mà chẳng cam tâm nhận bại, cứ chạy quanh mãi. Nhưng Triệu Phi Hoan đã nóng ruột, xuất kỳ chiêu, tấn công tới tấp và bất ngờ vươn tay tóm lấy cổ chân của Họ Dương. Gã chỉ giát mạnh một cái là thân hình nặng hơn trăm cân của Tứ Bích bay vèo xuống dưới đài, rơi vào đầu khán giả.
Thần lực khủng khiếp của gã đã làm toàn trường phải phục lăn. Được cử tọa vỗ tay tán thưởng, Phi Hoan khoan khoái toét miệng cười mãi và đắc ý nói:
- Tại hạ còn khỏe như trâu, không cần phải nghỉ ngơi! Xin mời người thứ ba!
Huyết Báo thở dài, thầm giận đứa em ngốc nghếch, huênh hoang, song vẫn lặng lẽ làm nhiệm vụ của mình.
Nhưng xem ra Phi Hoan chẳng đến nỗi ngu khờ cho lắm trong trận thứ ba gã hạ đối thủ rất chóng vánh bằng một thứ quyền thuật ảo diệu và lạ mắt. Chỉ sau chục chiêu, họ Triển lăn tròn trên sàn đài, cuốn đến chân đối phương và túm lấy thắt lưng mà ném xuống đất.
Quyền thuật Trung Hoa rất phong phú, bao gồm cả những thế vật song không được xem trọng phần này nên môn vật dần dà bị mai một. Trong khi ấy võ vật phát triển rất mạnh ở các vùng lãnh thổ lân cận như Mông Cổ, mãn châu, phù tang, An Nam, Nga La
Lý do sâu xa của hiện tượng này có lẽ xuất phát từ khuynh hướng xem trọng lễ nghi, vẻ tôn nghiêm chỉnh tề của người Hán. Khi vật nhau thì y phục xốc xếch, cơ thể dơ bẩn vì mồ hôi, chẳng đẹp mắt và oai phong chút nào cả.
Nhưng dẫu sao thì thế vật ảo diệu của Triển Phi Hoan cũng được mọi người hoan hô vì mang đến thắng lợi cho gã ở trận thứ ba.
Họ Triển thắng thêm một trận nữa thì đến giờ nghỉ trưa. Đầu giờ chiều, Phi Hoan lại thắng, tiến rất sát danh hiệu quán quân. Gã vừa khỏe như voi, vừa có cơ thể rắn chắc giỏi chịu đòn, lại giỏi quyền thuật, nên chẳng ai địch lại.
Tư Đồ Sảng không ngờ cục diện lại diễn biến một cách éo le như thế. Chẳng lẽ chàng lại thượng đài, đả bái thuộc hạ để giành lấy vợ. Bằng như chàng không hành động thì sau này mặt mũi nào mà giành Chiêu Hương?
Chàng đang phân vân, do dự thì đối thủ thứ sáu của Phi Hoan xuất hiện. Tư Đồ Sảng giật mình nhận ra Lăng Khải Trạch thiếu cung chủ Hạo Thiên Cung. Chàng băn khoăn tự hỏi họ Lăng đến đây làm gì khi năm sắp hết, phải chăng bọn tà mà đang muốn bành trướng thế lực lên miền Bắc nên Hải Hoa Bang thì tiếp tay cho Nhị hoàng tử Chu Cát, còn Lăng Khải Trạch có mặt ở Trực Cô?
Trên lôi đài, Huyết Bắc Liễu Mộ Hào cũng đã nhận ra kẻ địch, bước đến rỉ tai Triển Phi Hoan mà căn dặn.
Lăng Khải Trạch chẳng thèm lưu ý đến cử chỉ ấy, vui vẻ vòng tay thi lễ với Bàng đề đốc cùng Mạc Lão Thái. Và gã tươi cười nói với Mạc Chiêu Hương:
- Mạc tiểu thư! Từ ngày tương ngộ ở Đồng Quan, lòng ta luôn vương vấn bóng hình của mỹ nhân. Nay tình cờ gặp lại, Lăng mỗ vô cùng hanh phúc, quyết cùng nàng sánh duyên Tần Tấn cho thỏa ước nguyện bình sinh.
Mạc Chiêu Hương rầu rĩ, không biết nói sao, ánh mắt đầy vẻ ai oán. Nhưng Bàng đề đốc thì lại rất cao hứng trước chàng trai anh tuấn như cây ngọc trước gió họ Lăng. Ông mong Lăng Khải Trạch sẽ đả bại cái gã lùn họ Triển kia để cháu gái ông có đượm một đấng lang quân tài mạo song toàn. Từ sáng đến giờ Bàng lão vô cùng áy náy, cảm thấy có lỗi với Chiêu Hương, khi gã khỉ đột Triển Phi Hoan cứ thắng hết người này đến người khác. Chiêu Hương mà phải lấy gã ta thì đúng là hoa lai cắm bãi cứt trâu.
Ai nghĩ sao cũng mạc, trận đấu sẽ bắt đầu. Triến Phi Hoan, tuy dã được Huyết Báo cảnh báo, vẫn tự tin vung quyền xông vào đấm đá như mưa.
Gã không biết rằng Lăng Khai Trạch tinh thông võ nghệ nhiều nhà, công lực lại thâm hậu hơn tuổi tác. Họ Lăng thi triển ngay pho Xà Quyền, một loại công phu đặc dị của đất quý châu. Xà quyền cũng chuyên tấn công phần thân dưới, bao gồm những thế tấn thấp, rất thích hợp để đối phó với một kẻ có chiều cao khiêm tốn như Phi Hoan.

Con người không có đuôi nên những đòn chân tượng trưng cho những cú quét đuôi của loài bò sát, rất bất ngờ và mãnh liệt. Thêm vào đấy, song thủ của Lăng Khải Trạch có tư thế đầu rắn cất lên, bàn tay lúc thì xòe như móng vuốt lúc thì chụm lại để mổ những cú nhanh như điện.
Quyền cước chạm nhau, song phương quấn quít đổi đòn, bật ra rồi lại áp sát ngay, động tác rất uyển chuyển và dũng mãnh, khiến người xem ngây ngất.
Công lực của Lăng Khải Trạch còn cao hơn Triển Phi Hoan nên gã chẳng va chạm và cũng không sợ bị đẩy lùi. Không những thế, họ Lăng còn chiếm được thượng phong về mặt chiêu thức, liên tiếp đánh trúng đối phương.
Gần khắc sau, nhân dạng của Triển Phi Hoan trông thật đáng thương, quần áo rách te tua vì song tráo, để lộ những vết cáo đỏ hỏn hay những chỗ thâm tím bởi đòn xà chủy.
Họ Triển tức vì đau thì ít mà giận bởi tiếc bộ võ phục đẹp thì nhiều. Gã điên tiết gầm lên, gồng người chịu liền mấy trao rồi lừa thế bổ vào chân đối thủ.
Lăng Khải Trạch tưởng Phi Hoan định vật mình, vội tung người bốc lên cao. Nào ngờ, họ Triển lại thi thố một chiêu quái dị, dựng ngược người rồi búng mạnh đôi tay, để thân hình bay vút theo Khải Trạch, song cước đá ngay và hạ bàn.
Họ Lăng trúng hai đòn, một vào đùi một vào hạ thể. Do gã đang thuận thế bốc lên nên đùi trái không sao, nhưng mũi giầy vải chân kia của Phi Hoan lại đá phớt hạ nang, khiến Khải Trạch đau thấu trời, tứ chi bải hoải, rụng rời.
Quần hào đất Bắc reo hò như sấm, hoan hô cái chiêu thức lạ lùng, hiếm có của Phi Hoan. Họ hài lòng khi thấy thiếu cung chủ Hạo Thiên Cung ăn đòn.
Một ai đó còn cười hô hố châm chọc:
- Tội nghiệp Lăng công tử! Dù chàng ta có thắng được trận này thì cũng vô ích! Hai hòn ngọc kia vỡ mẹ nó mất rồi, còn làm chồng ai được nữa.
Đám thanh niên nghe vậy phá lên cười ngất. Trên kia, Mạc Chiêu Hương thẹn đỏ nhặt tía tải song vẫn mỉm cười.
Nhưng có lẽ của quý vẫn còn nên lát sau cơn đau qua đi và Lăng Khải Trạch trút hận lên đầu đối thủ. Gã tấn công Triển Phi Hoan bằng những đòn liên hoàn, nối nhau tựa sóng dữ Hoàng Hà, quyền ảnh mờ mịt đấu trường. Họ Triển trúng đòn tới tấp, thân hình chao đảo như chiếc lá giữa cuồng phong máu rỉ ra khóe miệng, chứng tỏ đã thọ nội thương. Nhưng gã vẫn ngoan cường chiến đấu, lăn xả vào kẻ địch, chứng chịu hạ đài.
Mọi người chết lặng, lòng xót xa bất nhẫn khi chứng kiến thảm trạng Phi Hoan. Sự dũng cảm, sức chịu đựng phi thường và tính bất khuất của gà đã khiến người ngoài khâm phục và yêu mến. Giờ đây, trong con mắt của họ, chàng trai thấp lùn kia đích thị là một hảo hán, một dũng sĩ.
Còn đối với gã thiếu cung chủ kênh kiệu, cao ngạo kia, họ càng bội phần chán ghét. Trong đạo của tự nhiên, cái gì trắng quá sẽ mau bị bôi bẩn, cái gì sáng quá sẽ bị che mờ. Cho nên, kẻ kiêu kỳ, tự tôn luôn khiến cho người đời đố kỵ, xa cách. Bậc chân nhân hiểu rõ đạo trời nên lúc nào cũng khiêm tốn, giấu giếm cái hay, cái đẹp của bản thân.
Nhưng lòng yêu ghét của khán giả không cứu nổi Triển Phi Hoan, nhất là khi Lăng Khải Trạch động sát cơ, thi triển Lô Hoả Thần Chì. Hỏa hầu của gã còn non, chỉ phong phát ra dài chưa đến hai gang, song cũng đủ sức đốt cháy da thịt nạn nhân! Mọi người kinh hãi kêu lên khi thấy chiếc áo rách của Phi Hoan bốc khói và gã thì đau đớn rú vang những âm thanh phẫn hận.
Tư Đồ Sảng đau lòng khôn xiết, vừa định nhẩy lên đài can thiệp thì Huyết Báo đã ra lệnh đình thủ. Gã nhẩy đến nắm vai chàng ngốc kiêu dũng đất Tứ Xuyên mà lôi khỏi chiến địa.
Tất nhiên, Lăng Khải Trạch cũng phải dừng tay, môi điểm nụ cười tàn ác.
Phi Hoan quỵ xuống, ôm chân Liễu Mộ Hào khóc nói:
- Liễu đại ca! Tiểu đệ đã tận lực mà vẫn không giành được Chiêu Hương về cho họ Tư Đồ. Chẳng mặt mũi nào mà về gặp công tử nữa. Sao đại ca không để cho tiểu đệ chết cho đỡ thẹn!
Dứt lời gã rống lên như cha chết, tiéng khóc bi ai, thê thiết khiến nhiều người múi lòng.
Tư Đồ Sảng cũng vậy và chàng tự hỏi vì sao Triển Phi Hoan lại đối với mình nặng tình đến mức liều cả sinh mạng như thế! Nếu là Huyết Báo thì Tư Đồ Sảng có thể hiểu được vì chàng từng cứu mạng họ Liễu. Nhưng Phi Hoan chỉ là kẻ sơ giao, nhận chân thủ hạ để kiếm để chén cơm, ân tình lợt lạt.
Tiếng khóc của họ Triển đã dứt bặt vì Mạc Chiêu Hương đã bước đến, thì thầm an ủi. Chẳng hiểu nàng nói gì mà Phi Hoàn tươi tỉnh nhoẻn miệng cười ngay và gật đầu lia lịa. Sau đó, gã tập tễnh hạ đài, theo mấy ả nữ tỳ vào dinh đề đốc để được chăm sóc thương tích.
Ở đây Huyết Báo lạnh lùng tuyên cáo:
- Lăng Khải Trạch thắng trận đầu còn phải đấu thêm sáu trận nữa. Mời chư vị anh hùng nhanh chân cho!
Nhưng Lô Hoả Thần Chỉ đã dọa khiếp mọi người nên chẳng ai dáng hó hé. Lăng Khải Trạch đắc ý bảo Huyết Báo:
- Nếu không còn ai đủ can đảm thượng đài, phiền Liễu các hạ mau mời Mạc tiểu thư xuống cùng ta thương lượng mối lương duyên.
Bọn hào kiệt trẻ Hà Bắc tức điên người, thở phò phò như trâu, song chân thì như bị chôn xuống đất, miệng câm tựa ngậm tăm.
Do vậy, không gian nơi đây vô cùng tĩnh lặng, chỉ còn tiếng giũ phần phật của những tấm vải buồm trước gió đông
May thay, có người đã thượng đài phá vỡ bầu không khí nặng nề, khó thở
- Tại hạ Tư Mã Khôi, hai mươi bẩy tuổi, quê quán Hà Bắc.
Cứ tọa xôn xao hẳn lên, hỏi nhau xem có ai biết chàng trai để ria mép kia không? Nếu gã giỏi võ đến mức không sợ hãi Lăng Khải Trạch thì vì sao trước giờ vẫn vô danh. Hoặc giả, Tư Mã Khôi háo danh và có máu liều nên lên để kiếm chút tiếng tăm?
Chính Huyết Báo cũng nghi ngờ và ái ngại cho Tư Mã Khôi. Gã lạnh lùng nhắc nhở:
- Các hạ đã chứng kiến tận mắt bản lãnh của Lăng Khải Trạch xin hãy tự lượng sức mình?
Tư Đồ Sảng gật đầu, thản nhiên cởi áo choàng lông, và tháo cả túi da đựng Giáng Ma Phủ, trao cho Huyết Báo. Túi da này Phi Hồng mới khâu, sau khi Liễu Mộ Hào rời Thúy Phong Cốc nên gã không nhìn ra.
Huyết Báo ngỡ ngàng nhận lấy, suýt nữa làm rơi Giáng Ma Phủ. Gã đâu ngờ cái túi tròn tròn này lại nặng đến hai chục cân. Một ý niệm là lạ bỗng lóe bên trong tâm thức, Huyết Báo ngơ ngấn nhìn theo vóc dáng cao lớn của Tư Mã Khôi mỉm cười ngây ngô. Gã thận trọng nắn thử vật trong bao da, lát sau thở phào nhẹ nhõm tươi như hoa.
Lúc này, hai đấu thủ đã đứng đối diện nhau, Lăng Khải Trạch ngạo nghễ bảo:
- Ngươi quả là kẻ khờ dại, không biết sống chết là gì! Xuất thủ đi!
Chẳng phải họ Lăng tốt bụng nhường nhịn mà vì Tư Mã Khôi nhỏ tuổi hơn đấy thôi.
Tư Đồ Sảng ôm quyền chào đối phương rối ập vào nhanh như gió thoảng, xuất chiêu Thần Long Cửu Chuyển. Song thủ chập chờn vươn dài, uy hiếp chín phương vị trên thân trước họ Lăng.
Mười ngón tay chàng biến hóa liên tục lúc xòe lúc cụp, lúc là trảo, lúc là quyền, tùy theo từng thế thức.
Xen kẽ với những đòn tay, song cước Tư Đồ Sảng thường thọc nhanh vào hạ bàn kẻ địch, mũi giầy nhắm hai huyệt Phục Thố trên đùi và Độc Tỵ trên đầu gối.
Chín lần chín tám mươi mốt thức nối nhau liên miên bất tuyệt, hung hãn tựa bão táp, đã khiến Lăng Khải Trạch phải lúng túng. Chẳng phải vì gã chưa kịp chuẩn bị chu đáo, chân khí dồn không đủ, mà bởi bản lãnh của Tư Mã Khôi cao siêu đến khó ngờ, cả về phương diện công lực lẫn chiêu thức.
Khi chống đỡ, họ Lăng có cảm giác tay chân mình tiếp xúc với gỗ cứng, còn tệ hơn lúc va chạm với gã lùn Triển Phi Hoan. Dường như thủ cước của Mã Khôi chỉ toàn xương xẩu chứ không có miếng thịt nào. Dĩ nhiên, Lăng Khải Trạch đau đến toát mồ hôi, cắn răng tiếp chiêu, chân thì thoái bộ liên tục.
Lăng Khải Trạch cũng là một nhân tài võ học kiệt xuất, thông minh hơn người, lại luyện võ đã hai mươi mấy năm, nên quyền pháp cao cường. Nhờ vậy gã giải phá được gần hết những đòn thế hiểm ác của Tư Mã Khôi. Nhưng chân trái đối phương đột ngột vươn cao, đá thông vào mặt gã. Khải Trạch nhanh nhẹn đảo cổ tay, chụp lấy chân đối phương. Nào ngờ đấy chính là hư chiêu và bàn chân Tư Mã Khôi đã hạ xuống, thọc vào ngực họ Lăng. Cước pháp ảo diệu phi thường này đã giành được thắng lợi, đá văng Khải Trạch ra xa nửa trượng.
Họ Lăng công lực thâm hậu nên chỉ bị thương nhẹ. Gã đưa tay áo lau máu miệng rồi lao đến trả đũa bằng thủ pháp Lô Hoả Thần Chỉ, ánh mắt đầy vẻ căm hận.
Quần hào đang reo hò vội ngậm miệng vì lo ngại Tư Mã Khôi không chống nổi những đạo chỉ phong nóng rực. Thương tích trên người Triển Phi Hoan đã chứng tỏ uy lực đáng sợ của thứ công phu bá đạo ấy.
Nhưng Tư Mã Khôi vẫn thản nhiên đối phó, tận dụng ưu thế chiều dài tay chân và thân pháp kỳ ảo mà chống trả. Chàng ta cao hơn đối phương cả một cái đầu nên tầm với của tứ chi phải xa hơn.
Những đạo chỉ phong của Lăng Khải Trạch chỉ dài gần hai gang tay, khó mà chạm đến cơ thể của Tư Mã Khôi được.
Tất nhiên, song thủ và song cước, Tư Mã Khôi không tránh được tổn thương ống quần, ống tay áo thừng lỗ chỗ và bốc khói nghi ngút. Da thịt chắc cũng khó vẹn toàn.
Nhưng Tư Mã Khôi chịu đựng được nỗi đau đớn ấy, ra đòn tới tấp và liên tiếp đắc thủ.
Lăng Khải Trạch đã thay đổi nhiều loạt quyền pháp khác nhau như xà Quyền, Hạc Quyền, Hổ Quyền, Hầu Quyền, Thập Bát La Hán Quyền, Nga Mỹ nhu quyền, Võ Đang trường quyền... mà vẫn không địch lại Tư Mã Khôi. Có thể chính vì gã tinh thông quá nhiều công phu nên không môn nào đạt đến trình độ cao.
Hơn nữa, những cao thủ đến Hạo Thiên Cung trao đổi võ học ít nhiều đều giấu lại vài chiêu tuyệt kỹ, và dù cho họ đưa cả bí kíp ra thì cũng chẳng tiết lộ tinh túy của võ học là phép biến hóa. Phần tinh hoa này chỉ có được sau nhiều năm khổ luyện.
Ngược lại, Tư Đồ Sảng học pho Du Long Thần Quyền dưới sự chỉ bảo tận tình của phụ thân. Dĩ nhiên, Tư Đồ Quát dã truyền lại cho con trai những yếu quyết, mà ông đã thu hoạch được.
Điếu này đã khiến cho Tư Đồ Sảng dễ dàng vươn đến cảnh giới thượng thừa của pho quyến. Vả lại, chàng chỉ luyện có một thứ quyền pháp, bảo sao không tinh thông cho được?
Tư Đồ Sảng giống cha ở tính rạch ròi, thẳng thắn, ghét ác như kẻ thù, nên giờ đây chàng quyết không tha cho Lăng Khải Trạch.
Tư Đồ Sảng dồn toàn lực thi triển pho trường quyền núi Cổ Sơn, lạnh lùng giáng những đòn nặng nề vào thân xác họ Lăng. Và trước khi gã kịp nhận bại để toàn sinh, chàng xuất chiêu Ngư Long Bái Vỹ ( cá rồng vẫy đuôi ) đá văng gã khỏi mép lôi đài, rơi xuống đất.
Thủ hạ của Lăng Khải Trạch chạy đến xem xét thương thế rồi mau chóng cõng chủ nhân rời sinh đề đốc. Họ Lăng mà không chết thì cũng phải liệt giường ít nhất ba năm. Tư Đồ Sảng biết rõ mình đã đánh dập gan của gã.*
* *Ba hôm sau, Triển Phi Hoan đang nằm dưỡng thương, người dán đầy những lá cao trị bỏng, chợt nghe hai ả nữ tỳ đi ngang hành lang bàn về lễ đính hôn của Tư Đồ Sảng và Mạc Chiêu Hương. Gã lập tức ngồi bật dậy, mặc y phục chỉnh tề, đi tìm chủ nhân.
Gã hói thăm thì được biết Tư Đồ Sảng đang Huyết Báo và mẹ con Mạc lão thái uống trà trong phòng khác nhỏ. Gã rảo bước đến đấy, được mọi người niềm nở mời ngồi.
Phi Hoan an toạ, cố nhấp hớp trà thơm rồi ấp úng hỏi Tư Đồ Sảng:
- Dám hỏi công tử lễ đính hôn sẽ tổ chức ngày nào?
Tư Đồ Sảng ngượng ngùng đáp:
- Trưa mai!
Triển Phi Hoan gật gù, hít một hơi dài để lấy dũng khí rồi ngập ngừng nói:
- Ta... ta có một ước nguyện nhỏ nhoi. Mong công tử đáp ứng cho!
Tư Đồ Sảng ngạc nhiên không hiểu song cũng gật đầu:
- Triển túc hạ cứ nói!
Sau lần đả lôi đài vừa rồi, chàng đã nhìn rõ bản chất cương liệt, trung thành và tận tuỵ của họ Triển nên rất kính trọng, mến mộ. Những người khác trong nhà cũng vậy.
Phi Hoan nhìn chàng với ánh mắt thiết tha, đầy hy vọng:
- Nay công tử đính hôn mà không có trưởng bối bên cạnh, ta muốn được đóng vai huynh trưởng của công tử, liệu có được chăng?
Trong lúc Tư Đồ Sảng còn ngơ ngác trước yêu cầu lạ lùng kia, Phi Hoan buồn rầu nói tiếp:
- Ta mồ côi cha từ trong bụng mẹ, làm bạn với khỉ vượn, nên lòng khao khát có được một người anh em. Nay tình cờ gặp công tử có cái mũi giống ta khiến lòng này vô cùng quyến luyến, chứ chẳng phải là mưu đồ lợi lộc gì cả. Ta chỉ mong được một lần làm anh rồi trở về với phận nô bộc cũng cam lòng.
Cả nhà ngẩn người xúc động trước tâm tình của gã trai bất hạnh. Riêng Tư Đồ Sảng bỗng nghe buồn dào dạt một tình cảm yêu thương nồng ấm. Chàng điềm đạm nói:
- Tại hạ cũng là kẻ mồ cổ, không huynh đệ, xin gọi túc hạ là anh, không chỉ một lần mà là mãi mãi.
Và chàng vái gã rồi gọi:
- Triển đại ca!

Mạc Chiêu Hương thấy vậy cũng đứng lên nghiêng mình thi lễ thỏ thẻ:
- Tiểu muội bái kiến đại ca!
Phi Hoan vui mừng khôn xiết, toét miệng cười và xua tay nói:
- Miễn lễ! Miễn lễ! Hai em cứ bình thân.
Liễu Mộ Hào phì cười:
- Mẹ kiếp! Ngươi đâu phải là vua mà ăn nói như thế!
Họ Triển hổ thẹn cười nói giả lả:
- Tiểu đệ mừng quá nên chẳng biết nói sao, đành bắt chước mấy gã đóng tuồng!
Mạc lão thái hắng giọng, vui vẻ nhận xét:
- Này Triển hiền điệt! Tuy mắt miệng và khuôn mặt của ngươi khác hẳn với Sảng nhi nhưng lão thân cho rằng hai người còn giống nhau ở chỗ cùng ngốc nghếch, thực thà.
Ba bỗng che miệng cười khúc khích và hỏi Phi Hoan :
- À! Thế ngươi sờ vú mẹ đến năm mấy tuổi?
Mạc Chiêu Hương đỏ mát vì nhớ lại chuyện cũ rồi bỏ chạy về phòng kll.
nghe Phi Hoan cười hề hễ đáp:
- Tất nhiên là thua xa Sảng đệ! Đến năm bổn tuổi là tiểu điệt không còn được ngú chung với gia mẫu nữa rồi.*
* *Mùa đông đã thực sự ngự trị vùng Hoa Bắc, khắp nơi phủ trắng một màu tang tóc. Vịnh Bột Hải đóng băng và sông ngòi trong và ngoài thành Trực Cô cũng vậy.
Trực cô nằm trên bờ sông Hải Hà và lặ nơi tụ hội, đổ ra biển của năm nhánh sông đào là nam Vận Hà, Bắc Vận Hà, Tử Nha Hà, Đại Thanh Hà, Vĩnh Định Hà. Đồng thời cũng là chốn quy tụ rồi ra biển của năm con sông khác. Tử Nha Tâm Hà, Độc Lưu Giảm Hà, Định Tân Hà, Triều Bạch Tây Hà, Kế Vận Hà.
Chính vì địa thế ấy mà Trực Cô trở thành hải cảng quan trọng nhất Hoa Bắc, với clúều dài bờ biển là hơn ba trăm dăm.
Sông ngòi ở phủ Trực Cô ( tức Thiên Tân sau này ) ngang dọc như bàn cờ, đê tự nhiên và đê nhân tạo uốn khúc vươn ra tận biển. Đặc biệt có con đê cổ bằng vỏ sò, là một kỳ quan trên bình nguyên duyên hải.
Ra giêng Tư Đồ Sảng cũng sẽ đưa Chiêu Hương về Lạc Dương nên giờ đây hai người tranh thủ cải trang du ngoạn khắp vùng, mặc cho tuyết rơi mù mịt và gió Đông Bắc thét gào. Họ đều có nội công thâm hậu nên chịu đựng dễ dàng thời tiết khắc nghiệt chốn này.
Cái lạnh thấu xương đã íàm cho họ gần gũi nhau hơn và đến đêm đầy tháng chạp thì họ hòa lầm một. Tối hôm ấy, hai người chuyện trò đến đầu canh ba, Chiêu Hương cáo từ trở lại khuê phòng.
Tư Đồ Sảng lắc đầu, nhìn vị hôn thê bằng ánh mắt khát khao cháy bỏng. Chiêu Hương hiểu ý, mặt hoa đỏ bừng như say rượu, để phu tướng bồng mình đặt lên giường. Lát sau, thân hình nõn nà, khiêu gợi của nàng run lên dưới bàn tay và đôi môi nồng nhiệt của Tư Đồ Sảng.
Mạc Chiêu Hương là vưu vật hiếm có của tạo hóa, ngực nở, eo thon, chân dài, da dẽ mịn màng, trắng trẻo. Nàng đủ các tướng đa tình, song vì quá tự hào về nhan sắc của mình mà mãi đến tuổi hai mươi chín mới gặp được người vừa ý.
Đêm nay, dục tính bao nhiêu năm bị đè nén chợt bùng lên, Chiêu Hương cuồng nhiệt hiến dâng, mang lại cho Tư Đồ Sảng những cảm giác khoái lạc ngút ngàn và cũng nhận lại không ít những lần bồng bềnh trên đỉnh sóng tình.
Gần sáng, đôi uyên ương thỏa nguyện vu sơn, nằm cạnh nhau lắng nghe con tim rộn rã những nhịp yêu đương. Chiêu Hương bỗng thỏ thẻ:
- Tướng công có biết nguyên nhân vì sao mà thiếp lái ghét bỏ Liễu sư huynh vâ luôn tìm cách hãm hại y khỏng?
Tư Đồ Sảng lấc đầu:
- Ta cũng thắc mắc vì điều ấy vì bản chất nàng thiện lương, nhân hậu, chẳng hề ác độc.
Chiêu Hương ngượng ngùng kể lể:
- "Năm thiếp mười sáu tuổi thì nhan sắc đã rực rỡ, nổi tiếng đất Cam Châu nên sinh lòng kiêu ngạo, xem nam nhân trong vùng như cỏ rác. Liễu sư huynh thấy thế thường nhỏ nhẹ khuyên bào nhưng thiếp không nghe. Mộ Hào giận dữ cười nhạt, ngâm hai câu thơ:
Giai nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu.
Và y còn nói:
"Người đẹp thường chẳng thọ, sư muội lại thiếu lòng nhân, vui cười trước sự, đau khổ của kè khác khiến ngu huynh càng thêm lo lắng". Dứt lời y bỏ đi ngay.
Kể từ hôm ấy thiếp bị ám ảnh bởi việc chết non, lo lắng sợ sệt, bất an suốt mấy tháng trời. Đến khi bình tâm lại được thì nỗi oán hận Mộ Hào đã quá sâu".
Kể xong, nàng ứa lệ, run giọng hỏi Tư Đồ Sảng:
- Tướng công! Nay thiếp gặp được chàng, hạnh phúc như người lạc cỏi tiên nên nỗi ảnh năm xưa lại hiện về. Thiếp không được cùng chàng chung sống đến bạc đầu.
Tư Đồ Sảng suy nghĩ một lúc rồi dịu giọng an ủi nàng:
- Đúng là thế sự vô thường, yểu thọ khó lường, nhưng việc sinh tử vốn không liên quan đến nhan sắc và tài ba. Nghĩa là hai câu thơ cổ kia đã sai vì trong lịch sử có khá nhiều tướng tài sống rất thọ. Điển hình là Ngô Khởi, Bạch Khởi, Liêm Phay thời Chiến Quốc, và Hoàng Trung, Triệu Vân thời Tam Quốc. Còn trong các đại mỹ nhân thì Tây Thi, Điêu Thuyền đều sống đến lúc răng long, tóc bạc.
Chàng dừng lại, tát yêu vào má nàng và cười bảo:
- Do nàng được song thân và nhất ngươi thân yêu thương, khen ngợi quá nhiều nên sinh lắm tự hào về nhan sắc. Thực ra, mỹ nhân như nàng khòng phải là hiếm. Khi về Thúy Phong Cốc, nàng sẽ thấy Phi Tuyết, Phi Hồng kiều diễm chẳng kém.
Trong lúc Chiêu Hương chết điếng vì hồ thẹn, Tư Đồ Sảng vuốt ve ngực nàng mà tiếp lời:
- Họ chỉ thua nàng ở hai quả dừa này thôi!
Chiêu Hương thẹn quá hóa giận, đấm thùm thụp vào ngực tình quân. Nhưng lát sau nàng bật cười khúc khích:
- Thiếp đúng là kẻ ngu xuẩn, hồ đồ bao năm tự huyễn hoặc mình là đệ nhất mỹ nhân. Giờ thì thiếp đã tỉnh ngộ và không còn sợ chết non nữa.
Hai người ân ái thêm một hiệp rồi Chiêu Hương trở lại khuê phòng. Họ mới chỉ đính hôn, không thể ôm nhau ngủ đến sáng bạch được.
Nàng đi rồi, Tư Đồ Sảng nằm thao thức, suy nghĩ về câu chuyện lúc nãy. Chàng chợt hiểu ra rằng thế gian lắm kẻ u mê, tự phủ hào quang lên bản thân, cho mình là thượng đẳng, vượt trên đồng loại và luôn muốn chứng minh sự siêu việt ấy. Tần Cốc Lý, Lăng Song Tường, Nam Hải Tiên Ông cũng đều như thế. Và đấy cũng là tật xấu của những vị hôn quân trong lịch sử Trung Hoa. Họ xưng là con trời, có toàn quyến hành động, cư xử, bất kể hạnh phúc của lê dân và sự tồn vong của xã tắc. Kẻ tự tôn bao giờ cũng ích kỷ. Vua quan một giuộc như nhau nên lương thổ đã có lần rơi vào tay giặc Mông, nỗi nhục ngàn đời cho một nước vẫn tự hào là vĩ đại.
Tư Đồ Sảng thở dài, nhắm mắt dỗ dành giấc ngủ. Chàng mơ thấy thủ cấp của mình treo trên quan ải, mắt trợn trừng đầy uất hận, nhìn đoàn quân Mông Cổ lũ lượt qua ải mà vào Trung Thổ. *
* *Đêm đông giá rét thường quá dài đối với kẻ cô đơn người lữ thứ, nhưng lại quá ngắn với đôi tình nhân đang hồi nồng thắm. Thượng tuần tháng chạp trôi mau dù hàng đêm có hai kẻ trong đám thanh xuân, cố níu kéo thời gian bằng những trặn ái ân nóng bỏng.
Tuy đang lặn hụp trong biển tình, Tư Đồ Sảng vẫn không quên mối gia thù cũng như bai ngườì vợ hiền đang tựa cửa trông chồng.
Ngày ngày, chàng ra hoa viên rèn luyện võ nghệ, chẳng quản tuyết sương. Thấy vậy, Mạc Chiêu Hương và Triển Phi Hoan cũng không dám chểnh mảng. Tư Đồ Sảng hài lờng, dạy cho họ pho Trung Tinh bộ pháp. Huyết Báo đã được học từ dạo trước, giờ có thể vênh mặt làm thầy gã họ Triển.
Nlhưng tối đến, trong khì Tư Đồ Sảng tĩnh tọa. luyện Khô Mộc Thần công thì hai gã Liễu, Triển biến mất.
Nơi họ đến là những kỹ viện trong thành Trực Cô. Ở đấy, Triển Phi Hoan được tiếp đón như một thượng khách,vì ba lí do. Một là gã đã lừng danh hảo hán sau trận đả lôi đàí ở dính đề đốc. Hai là gã rất sòng phẳng chẳng bao giờ ỷ thế mà chơi quỵt hoặc thiếu chịu. Ba là gã rất kiêu dũng, bền bỉ, làm hài lòng những ả kỹ nữ lão luyện nhất.
Liễu Mộ Hào tuổi đã khá lớn, sức lực chẳng thể bì với họ Triển, song lại được ái mộ hơn. Nguyên nhân cực kỳ đơn giản, họ Liễu rất hào phóng, luôn thưởng thêm hậu hĩnh.
Triển Phi Hoan thì khác, gã chỉ trả đúng giá, không thêm bớt một trinh nào cả. Gã không tài nào hiểu nổi tại sao Mộ Hào phải đưa mười lượng khi giá dịch vụ chỉ lâ năm?
Và Phi Hoan cũng không biết rằng Mộ Hào đã lén thưởng cho những nàng phục vụ gã. Nhờ vậy mà nơi nơi đều vui vẻ nghênh đón cả hai người.
Sức lực của Phi Hoan thật đáng nể, tối nào cũng nài nỉ họ Liễu cùng mình đến thanh lâu. Mộ Hào không đi thì sẽ đi một minh.
Tối ngày mười một tháng chạp, Phi Hoan hăng hái rảo bước dưới làn mưa tuyết, tìm đến phố Quản Trọng, nơi tập trung thanh lầu, kỹ viện của Trực Cô.
Quản Trọng, tướng quốc nước Tề, là người đầu tiên xem nghề mãi dâm là một ngành kinh doanh hợp pháp, có những đóng góp đáng kể vào ngân sách quốc gia. Chính ông đã quy định các kỹ viện phải quét vôi màu xanh, từ đó có từ "thanh lâu".
Vì vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi người Trực Cô lấy tên ông ta mà đặt cho con đường có lắm gái lầu xanh.
Trực Cô nối liền với biển Bột Hải bằng đoạn hạ lưu Hải Hà dài hơn trăm dặm. Hải Hà có bề ngang rộng, luồng nước khá sâu, thuyền buồm thời bấy giờ lại không lớn lắm, nên chúng thường ngược giòng sông Hải, vào đến tận bến cảng ở phía Nam thành, chứ không thả neo ở cửa biển Đại Cô.
Hầu hết các thuyền ấy là của ngoại bang, Bồ Đào Nha, Hà Lan bởi thế cho nên thành Trực Cô có rất nhiều những thủy thủ mắt xanh, mũi lõ tóc vàng, người đầy lông lá.
Bọn Tây Dương khoái nhất hai món ăn nhậu và đàn bà, đêm đêm ngất ngưởng bá vai nhau mà đến phố Quản Trọng. Họ rất hung hăng, dữ tợn, khi say thường choảng nhau để giành gái.
Do địa bàn phức tạp như vậy nên lực lượng tuần tra của quân nhà Minh ở đây rất đông đảo, túc trực ngày đêm.
Tuy cực khổ như thế nhưng bù lại bọn lính tuần được các chủ quán rượu, chủ thanh lâu bồi dưỡng khá hậu, khi đến ngăn cản hành vi càn quấy của đám khách Tây Dương.
Tóm lại, đường phố trong thành Trực Cô rất an ninh nên Triển Phi Hoan mới dám rong chơi, không sợ sự báo thù của Hạo Thiên Cung.
Song, nhớ lời dặn dò của Tư Đồ Sảng, gã luôn mang theo vũ khí. Thanh đao của Phi Hoan ngắn hơn đao thường một gang tay nhưng nặng gấp rưỡi, có thế mới xứng với thân hình ngắn ngủn và sức khỏe phi thường của gã.
Phố Quản Trọng rất dài và các thanh lâu tập trung ở đoạn cuối gần cửa Nam thành, tức là gần bến cảng, chứ không nằm rải rác.
Khi còn cách khu vực ấy nửa dặm, Triển Phi Hoan bị chặn lại và ngỡ ngàng nhìn tòa trang viện bên mé hữu mình. Thường ngày, cơ ngơi ấy chẳng hề buôn bán gì, sao tối nay lại trương bảng Xuân Tình kỹ viện thế kia. Bảng này được chiếu sáng bởi một cặp đèn lồng phất giấy hổng.
Và kẻ chặn đường Triển Phi Hoan chính là hai ả trẻ măng và bội phần xinh đẹp. Họ níu áo gã mời chào:
- Bổn viện mới khai trương sáng nay, toàn là những tiểu cô nương kiều diễm và ngây thơ, có cả vài nàng nhụy còn phong kín, động đào chưa ai mở lối. Triển đại ca là bậc anh hùng, lại khét tiếng phong lưu, xin hãy dừng gót ngọc, ghé vào mở hàng cho chúng em. Bậc quý nhân như đại ca sẽ mang đến hồng vận, khiến sinh ý của Xuân Tình viện được thịnh vượng.
Được người đẹp hết lởi tán dương, họ Triển vô cùng khoan khoái, mũi phập phỗng nở to.
Nhưng gã đã khôn ra, nhờ thường xuyên tiếp xúc với bọn kỹ nữ. Kỹ viện là một nơi gian xảo, lọc lừa bậc nhất thiên hạ, chẳng thua gì chốn quan trường.
Song, đối với một gã ruột ngựa và ngoan cố như Phi Hoan thì bọn kỹ nữ có dỗ bao nhiêu mánh khóe cũng chẳng moi thêm được xu nào. Vì thế, họ thực thà với gã và còn dạy cho gã rất nhiều điều để khơi sáng cái đầu bã đậu, quê mùa.
Nhờ vậy mà giờ đây gã còn tỉnh táo để suy nghĩ chứ không cắn câu ngay. Phi Hoan thản nhiên luồn tay qua áo lông cừu của kỹ nữ đang níu tay mình mà sờ nắn nhũ phong, miệng thì nói:
- Để ta xem thử các nàng đúng là hàng mới hay là đã tã như chiếc mền rách rồi.
Ả kia nghe vậy không dám phản kháng, để mặc gã thám tra. Có lẽ ả mới vào nghề son phấn nên chưa quen, mặt đỏ bừng như gấc.
Phát hiện da thịt đối phương rất sân chắc, Phi Hoan hài lòng gật gù:
- Tốt lắm! Nàng qủa là thực thà! À! Thế giá cả bao nhiêu?
Ả kia run giọng đáp:
- Bẩm đại ca! Bổn viện mời ngài khai trương giùm nên chỉ lấy nửa giá nơi khác.
Phi Hoan khoái chí theo hai ả vào trong. Gã không biết rằng khi mình vừa đi hết sân trước, bước qua cứa thuỳ hoa, thì đèn lồng cùng bảng hiệu phía trước kỹ viện đã bị gỡ.
Và lúc Phi Hoan phát hiện ra rằng khung cánh nơi đây chẳng có gì giống kỹ viện thì đã muộn. Một mùi thơm hăng hạc xộc vào mũi họ Triển, làm cho gã mê man, khuy xuống. Hai ả kỹ nữ giả hiệu kìa lập tức lôi xệch nạn nhân vào một phòng sáng đèn, trong dãy nhà mé Bắc.
Triền Phí Hoan tỉnh lại, nhận ra mình đang bị trói chặt vào một chiếc cột gỗ ở tư thế đứng, trên thân chỉ còn lại chiếc quần đùi. Nhưng gã không thấy lạnh vì gần đấy là một lò than hồng.
Trong căn phòng không có cửa sổ này đèn nến sáng trưng nên Phi Hoan nhìn thấy rất rõ dung mạo của nữ nhân áo hồng đang ngồi trên cỗ đại ỷ, cách gã hơn trượng. Sau lưng người ấy là hai ả đã mời chào và hạ thủ Phi Hoan.
Họ Triển thầm chột dạ kinh hãi nhận ra cung chủ Hạo Thiên Cung Lăng Song Tường. Gã biết mình chết là cái chắc vì chân khí đã bị phong tỏa. Và dù cho võ công còn nguyên vẹn, tay chân được tự do thì gã cũng không địch lại đối phương. Nhưng vì sao mụ ta không giết gã ngay phải chăng muốn dùng đòn tra tấn để tìm hiểu về Tư Đồ Sảng?
Lăng Song Tường lên tiếng:
- Chắc ngươi đã nhận ra lão thân là ai rồi chứ?
Phi loan gật đầu vì biết rằng chối cũng vô ích. Trong đại hội võ lâm, gã đã ngu ngốc đứng ra làm trò cười cho nửa vạn người, giờ không thể nói là không tham dự.
Lăng cung chủ nói tiếp:
- Lão thân đã biết rõ Tư Mã Khôi chính thị Tư Đồ Sảng hóa trang, và gã ấy mới là kẻ thù của ta chứ không phải ngươi. Do vậy, lão thân sẽ mở cho ngươi một sinh lộ, sống chết là do ngươi tự quyết định lấy.
Triển Phi Hoan đã mờ mờ hiểu ra, điềm tĩnh đáp:
- Xin cung chủ cứ nói rõ cho ta nghe thử.

Lăng Song Tường hài lòng gật đầu và hỏi:
- Ngươi lĩnh lương của Tư Đồ Sảng một tháng bao nhiêu ngân lượng?
Phi Hoan đáp ngay:
- Năm chục lượng! Chưa kể chi phí ăn ở.
Lăng Song Tường cười nhạt:
- Kể ra thì cũng hậu nhưng lão thân e rằng không đủ cho một kẻ ngày nào cũng mò đến kỹ viện như ngươi.
Bà ta nói rất đúng và thực ra Phi Hoan được đối xử rộng rãi hơn nhiều. Gã chưa kịp cạn túi thì đã được Huyết Báo nhét cho một, hai trăm lượng, bất kể đã đủ tháng hay chưa. Họ Triển biết đấy là hảo ý cua Tư Đồ Sảng, lòng thầm biết ơn nhưng chẳng bao giờ nói.
Lăng cung chủ nói tiếp:
- Dẫu người có phục vụ cho Tư Đồ Sảng đến già thì cũng không thể nào khá được. Vì thế lão thân đề nghị cái giá hai ngàn lượng vàng nếu ngươi ám sát được Tư Đồ Sảng.
Và mụ gằn giọng hăm dọa:
- Ngươi có muốn từ chối cũng khó vì lão thân đã cho ngươi uống một viên Thất Nhật Đoạn Trường Đan. Trong bày ngày, nếu ngươi không mang được thủ cấp gã Tư Đồ Sảng chết bầm ấy đến đây thì sẽ toi mạng.
Phi Hoan biết mụ ta nói thật. Mụ sẽ chẳng dại gì thả gã ra trước khi nắm chắc sinh mạng. Uy hiếp xong, Lăng Song Tường lại dùng đến chiêu dụ dỗ:
- Ngươi cứ yên tâm mà hành động. Lão thân xin đem tổ tiên họ Lăng ra bảo đảm rằng sẽ giữ đúng lờỉ hứa, giải độc và tặng ngươi số vàng hai ngàn lượng. Hơn nữa, tại sao ngươi lại phải chết vì một kẻ người dưng. nước lã như Tư Đồ Sảng? Ngươi chỉ là một thứ nô tài lãnh lương tháng của gã thôi mà.
Mụ tin rằng Phi Hoan sẽ bị khuất phục bởi sự sợ chết, bởi hơi vàng, hai thứ có uy lực nhất trên đời.
Lăng Song Tường không thể ngờ rằng Phi Hoan thà chết chứ chẳng bán Tư Đồ Sảng, dù với giá nào cũng vậy.
Khi đã cam tâm đi vế cõi vĩnh hằng, tâm hồn Phi Hoan rất bình thản, sáng suốt. Gã suy nghĩ rất nhanh: Mẹ kiếp! Đằng nào cũng chết, ta phải tìm cách gỡ gạc con mẹ điếm non này mới được.
Và gã nghiêm nghị nói:
- Thú thực với cung chủ là tại hạ háo sắc hơn háo tài. Do vậy, tại hạ sẽ không lấy vàng mà chỉ muốn cùng cung chủ ân ái một đêm. Có thế thì tại hạ mới yên tâm hạ thủ Tư Đồ Sảng. Đã cùng chung chăn gối thì cung chủ sẽ không nỡ giết ta khi đại sự đã thành.
Lăng Song Tường choáng váng và hổ thẹn, không ngờ gã quỷ lùn kia lại đưa ra một yêu cầu oái ăm như thế. Bà ấp úng nói:
- Ta cho hai cón bé xinh đẹp cùng hầu hạ ngươi có được chăng?
Phi Hoan cười khổ:
- Trẻ như họ thì các thanh lâu chẳng thiếu. Ta chỉ muốn nếm thử hương vị của người đàn bà nổi tiếng nhất võ lâm đương đại mà thôi. Hơn nữa, cung chủ còn kiều diễm hơn bội phần.
Lăng Song Tường được tán dương, lòng vô cùng khoan khoái. Nhưng bà giả vờ giận dữ nạt:
- Sinh mạng ngươi ta đang nắm trong tay, đừng đòi hỏi quá mức!
Phi Hoan ngửa cể cười dài:
- Bà có thể giết ta nhưng sẽ không có được cái đầu của Từ Đồ Sảng! Triển mỗ vốn không sợ chết. Bà cứ hỏi Lăng Khải Trạch thì biết! Ta là quái nhân dị dạng nên suy nghĩ khác hẳn người thường.
Lăng Song Tường ngẩn người không biết tính sao. Và mắt bà tình cờ đặt vào thân trên vạm vỡ, cuồn cuộn bắp thịt của Phi Hoan, lát sau, lửa dục bùng lên. Hơn hai tháng nay, Môn Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý nằm liệt giường vì vụ nổ lôi đài ở đại hội võ lâm, khiến Song Tường phải đơn côi lúc đông về. Bà luyện Lô Hoả Tấm Pháp nên lửa dục rất vượng.
Lại nhớ đến đứa con trai yêu quý đang thập tử nhất sinh, Song Tường vô cùng căm giận Tư Đồ Sảng, quyết lấy mạng chàng bằng mọi giá. Dinh đề đốc được canh gác nghiêm mật và trong thành đầy dẫy quán binh nên bà chẳng dám trực diện báo thù đành phải mượn tay Phi Hoan. Hơn nữa, bản lãnh của Tư Đồ Sảng rất cao siêu, sức lực lại dồi dào, dễ dàng phá vây mà đào tẩu.
Vì những lý do nêu trên mâ Lăng Song Tường cắn răng chấp thuận đề nghị của Phi Hoan.
Hai ả nữ đệ tử bị đuổi ra khỏi mật thất, vừa đi vừa tức tối, chửi rủa. Phi Hoan là kẻ quái đản, ngu ngốc, thích rơm khô hơn cỏ non.
Ở đây, Lăng Song Tường điểm thêm vài huyệt trên người Phi Hoan rồi cởi trói cho gã. Bà bẽn lẽn nói:
- Ngươi đừng bao giờ nghĩ đến chuyện ám toán lão thân mà hoài công.
Phi Hoan mỉm cười, vươn tay vươn chân cho giãn gân cốt rồi bế xốc Lăng Song Tường đi về phía chiếc giường bát bửu đặt sát tường mật thất.
Chỉ một lát sau, tiếng rên rỉ vì khoái lạc vang lên, Song Tường xiết chặt lấy tấm thán cường tráng của họ Triển, liên tiếp rùng mình.
Phi Hoan thần dũng tuyệt luân lại có lối ái ân rất mãnh liệt. Song lại đáp ứng được nỗi khát khao của người đàn bà dâm đãng như Lăng Song Tường. Gã đã cho bà ta nhiều lạc thú hơn là Tần Cốc Lý.
Mây mưa nối tiếp mây mưa, đến sáng bạch Phi Hoan mới chịu đình chiến. Gã cười bảo:
- Bà có muốn ta ở lại thêm vài ngày nữa không?
Song Tường đỏ mặt đáp bằng giọng ôn nhu:
- Ngươi quả là một nam nhân vô cùng tuyệt diệu, khiến ta chẳng muốn xa. Nhưng ngươi không thể ở lại vì sẽ gây sự nghi ngờ. Ngươi hãy vế dinh đề đốc, cố giết cho được Tư Đồ Sảng! Lúc ấy ta sẽ phong ngươi làm tổng hộ pháp Hạo Thiên Cung, cùng nhau hưởng lạc thú và vinh hoa phú quý.*
* *Phi Hoan vế đến dinh đề đốc, vào thẳng phòng ăn hậu viện, nơi cả nhà đang dùng điểm tâm. Bàng đề đốc không có mặt vì đã đi Bắc Kinh từ mấy ngày trước.
Mạc Chiêu Hương đon đả nói:
- Chắc Triển đại ca chưa ăn sáng,hãy cùng dùng điểm tâm với mọi người.
Phi Hoan mỉm cười:
- Cảm ơn túc muội! Ta đang đói khủng khiếp.
Chờ gã ăn vài miếng bánh hấp nhân tôm, Huyết Báo cằn nhằn:
- Đêm qua ngươi đi đâu mà đến giờ mới trở về khiến cả nhà lo lắng! Thường thì ngươi đâu có qua đêm ở kỹ viện?
Phi Hoàn chiêu một hớp trà rồi thản nhiên đáp:
- Tiểu đệ bị Hạo Thiên Cung chủ Lăng Song Tường bắt cóc. Bà ta hiện đang ở trong một tòa gia trang trên phố Quán Trọng. Đại ca có muốn bắt thì kéo quân binh đi ngay kẻo muộn.
Liễu Mộ Hào biết gã nói thực, suy nghĩ một lúc rồi bảo:
- Có vậy cũng không bắt nổi mụ ta. Ngươi hãy kể rõ tao ngộ đêm qua xem nào?
Phi Hoan ăn thêm một cái bánh bao nhân thịt lớn rồi mới thuật lại mọi sự, Do có mặt Chiêu Hương và Mạc Lão Thái nên gã giấu kín cuộc ái ân với Lăng Song Tường.
Nghe xong, Mạc Lão Thái kinh hãi nói:
- Thất Nhật Đoạn Trường Đan là bí phương của Y Độc Thần Quân, lão thân cũng phải bó tay. Có thể là nha đầu Lăng Phi Tuyết giải được, nhưng trong bẩy ngày làm sao chúng ta kịp về Lạc Dương?
Tư Đồ Sảng vô cùng cảm động khi thấy Phi Hoan thà chịu chết chứ không phản bội mình. Chàng bi phẫn nói:
- Nếu thế, chúng ta chỉ còn cách tấn công ngay, bằng mọi giá phải bắt cho được Lăng cung chủ để lấy thuốc giải độc.
Triển Phi Hoan xua tay bác bỏ:
- Vô ích thôi! Hạo Thiên Cung đã cho người giám sát dính đề đốc rất chặt chẽ. Chúng ta mà khởi binh là họ biết ngay và biến mất tăm.
Chiêu Hương ứa nước mắt, ngập ngừng than thở:
- Vậy chẳng lẽ chúng ta phải bó tay nhìn Triển đại ca vong mạng?
Phi Hoan lắc đầu trấn an:
- Túc muội chớ lo! Thực ra mạng ta cũng chúng đến nỗi nguy ngập lắm. Lăng Song Tường đã đem tông môn ra bảo đảm rằng sẽ đem ta thoát khỏi Trực Cô nếu chẳng may hành sự thất bại. Vài ngày nữa, chúng ta sẽ diễn một màn kịch khổ nhục kế ta mang thương tích đào tẩu, tìm đến với Lăng Song Tường, vì ám toán Sảng đệ sẽ chẳng thành. Các ngươi sẽ kéo quân truy bắt nhưng không được đến phố Quản Trọng. Ta sẽ đi theo Hạo Thiên Cung đến khi được giải độc xong mới quay về.
Huyết Báo ngạc nhiên, vỗ đùi khen:
- Chân diệu kế! Sao hôm nay ngươi lại thông minh đột xuất thế nhỉ?
Phi Hoan cười đáp:
- Kế này ta học trong tuồng Chu Du đả Hoàng Cái đấy mà! Có gì hay ho đầu.
Tuy biết đấy là phương án duy nhất để cứu mạng Phi Hoan song Tư Đồ Sảng vẫn thận trọng. Chàng trầm ngầm bảo:
- Để đề phòng Lăng Song Tường nuốt lời, tiểu đệ và Liễu huynh sẽ ẩn mình trên nóc tòa trang viện ấy. Nếu mụ giở quẻ thì chúng ta liên thủ mà đối phó. Tiểu đệ tự tin sẽ đả thương được đối phương bằng một đòn đánh lén. Sau đó, chúng ta dễ dàng bắt sống Lăng Song Tường hơn. Phần Hương muội sẽ mai phục bên ngoài, khi hữu sự thì vào tiêu diệt mấy ả đệ tử Hạo Thiên Cung.
Dẫu đã có kế hoạch tốt, nhưng ai nấy cũng nơm nớp lo lắng, chỉ sợ Lăng Song Tường thoát được. Với công lực siêu phàm và tuyệt kỹ Lô Hoả Thần Chỉ, dầu đã thọ thương thì bà ta vẫn có khả năng đào thoát. Khi ấy, mạng của Phi Hoan toi là cái chắc.
Sầm tối hôm ấy, Phi Hoan thản nhiên mò đến tìm Lăng Song Tường.
Bà ta cau mày hỏi:
- Sao ngươi không ở nhà tìm cách hạ thủ mà đến đây làm gì?
Phi Hoan cười nhạt:
- Giờ này Tư Đồ Sảng còn thức, ta làm sao hành động được. Hay nàng muốn ta chết theo gã? Vả lại, tối nào ta cũng đi, nếu ở nhà chẳng phải sẽ gây nghi ngờ sao?
Và gã tình tứ nói nhỏ:
- Hơn nữa, ta nhớ nàng quá. Chúng ta cứ vui vẻ đến nửa đêm rồi Hoan này sẽ về dinh rình cơ hội ra tay.
Được gọi bằng tiếng "nàng" rất ngọt ngào, người đàn bà lớn tuổi kia chợt ngất ngây vì sung sướng. Bao năm qua, Song Tường tìm đủ mọi cách để lưu giữ tuổi xuân bằng cả thuốc quý lẫn tà công. Bà ta đã thành công nhưng vẫn tự hiểu rằng mình sắp sáu mươi.
Nay được một chàng trai trẻ đắm say đến mức quên cả tuổi tác, bảo sao Song Tường không vui cho được?
Bà bẽn lẽn nguýt gã:
- Ngươi thích ta thật sao?
Phi Hoan gật đầu, cười hề hề, ánh mắt đầy vẻ khát khao. Lúc này, hai người ở trong phòng phía trên của mật thất nên nhanh chóng xuống dưới, gầy cuộc truy hoan.
Lần này họ Triển không vội vã, vuốt ve mơn trớn bạn tình rất lâu. Gã đã được bọn kỹ nữ truyền nghề nên biết rõ những thủ thuật gợi tình.
Phi Hoan thần khen đối phương giỏi thuật trụ nhan, giữ được thân hình săn chắc, gọn gàng, nở nang nhưng chẳng chút mỡ thừa. Có lẽ không cho con bú một ngày nào nên ngực còn rất đẹp. Đột nhiên gã thức ngộ rằng mình thực lòng say mê mụ yêu nữ họ Lăng này. Khổ nỗi, Song Tường lại hơn gã đến hai mươi mấy tuổi.
Giữa canh ba, Phi Hoan hạ mã đòi về. Song Tường rất lưu luyến nhưng không giữ lại. Và bà dịu giọng dặn dò:
- Khi hành sự ngươi nên thận trọng, thấy không thoát được thì khoan làm chờ cơ hội khác. Nếu lỡ bại lộ, ngươi cứ vừa về đây mà trốn. Nơi này có mật lộ thông ra ngoài, dẫu ngàn quân vây hãm chúng ta cũng thoát ra được
Phi Hoan cảm động, hôn lên má kẻ thù, biết rằng diệu kế của mình sẽ thành công. Không phải là khổ nhục kế mà là vu sơn kế, ái ân đã khiến Song Tường yêu mến gã.
Từ đó, tối nào Phi Hoan cũng đến thăm cung chủ Hạo Thiên Cung và trở về lúc nửa đêm. Nhưng Song Tường không quên mối hận với Tư Đồ Sảng, mở lời nhắc nhở kỳ hạn bẩy ngày và bắt đầu sinh nghi.
Vì thế mà đêm mười sáu tháng chạp dinh đề đốc được một phen náo loạn, đèn đuốc sáng rực. Tiếng người reo hò vang dội. Và sau đó, tỉếng vó ngựa của quân binh gõ vang trên những con phố trong thành Trực Cô.
Lúc này, Triển phi Hoan đã có mặt bên cạnh Lăng Song Tường để được tình nhân băng bó. Gã kể rằng đã đột nhập vào phòng riêng của Tư Đồ Sảng, vung đao định chém, nào ngờ chàng ta phát hiện, lăn người né tránh nên không chết. Tư Đồ Sảng chỉ bị mũi đao rạch một vết nơi vai trái.
Phi Hoan đã xấn tới chém với thêm một nhát nữa nhưng Tư Đồ Sảng đã sớm chụp được thanh trường kiếm đặt trong giường, đâm gã một nhát vào ngực phải. Biết đại sự không thành, gã đành phải đào tẩu, may mà thoát chết.
Lăng Song Tường rất tin câu chuyện ấy vì nhát kiếm rất sâu, đâm gầy một nhánh xương lồng ngực, sắp chạm vào màng phổi.
Sáng hôm sau, bà cho Phi Hoan uống giải độc đan rồi đưa gã cùng vài đệ tử rời thành Trực Cô.
Lăng cung thủ không biết rằng đêm qua có hai người nằm phục trên mái ngói. Sau khi chứng kiến cảnh bà tận tình chăm sóc cho Phi Hoan, họ mới bỏ đi.


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui