Vụ ám sát đã giúp Kennedy giành được số phiếu cao nhất. Vào tháng Một, Francis Xavier Kennedy đã tái trúng cử nhiệm kỳ Tổng thống Hoa Kỳ. Chiến thắng quá lớn nên ông gần như đưa được toàn bộ số ứng cử viên của mình vào cả hai viện trong Quốc hội.
Trong thời kỳ trước khi nhậm chức, từ tháng Mười Một đến tháng Giêng, Francis Kennedy giao cho chính phủ của ông phác thỏa những dự luật mới dành cho Quốc hội mới và cũng nhau hợp tác. Hơn nữa ông được báo chí và vô tuyến hỗ trợ bằng cách dựng lên những câu chuyện tưởng tượng cho rằng Gresse và Tibbot đã dính líu với Yabril và vụ mưu sát Tổng thống.
Tổng thống Kennedy triệu tập Theodore Tappey, giám đốc CIA, tới họp bàn riêng tại phòng Yellow Oval. Cuộc gặp mặt chỉ có hai người, ông không muốn có nhân chứng thứ ba, không muốn ghi chép, thu băng lại.
Kennedy đi thẳng ngay vào vấn đề, không để mất thời gian xã giao vô ích. Ông ngắn gọn bảo Tappey.
- Anh Theo, chúng ta có một vấn đề lớn mà chỉ anh và tôi mới hiểu rõ. Và chỉ anh và tôi mới có thể giải quyết được.
- Thưa Tổng thống, tôi xin làm với hết sức mình, - Tappey nói. Kennedy nhận thấy trong ánh mắt ông ta để lộ một vẻ hung dữ.
- Tất cả những điều ta trao đổi đây phải giữ tuyệt mật. Anh tuyệt đối không nói lại với bất kỳ một ai, thậm chí cả với các thành viên trong bộ tham mưu của tôi.
Mãi lúc này Tappey mới hiểu rõ rằng vấn đề cực kỳ tế nhị, ngay cả không một ai trong bộ tham mưu được biết cả.
- Đấy là chuyện Yabril, - Kennedy bảo, - Tôi tin chắc rằng Yabril sẽ phải ra trước tòa xét xử. Điều này sẽ khơi lại tất cả những nỗi oán giận của đất nước Hoa Kỳ. Hắn sẽ bị kết án và bị xử tù chung thân. Nhưng trong trường hợp xấu nhát thì sẽ xảy ra một hành động khủng bố, bắt mộg số con tin quan trọng. Một trong những yêu sách sẽ là đòi thả Yabril. Lúc đó có thể đã chấm dứt nhiệm kỳ Tổng thống của tôi và tôi không còn là Tổng thống, do đó Yabril sẽ được thả tự do. Hắn là một con người nguy hiểm.
Kennedy bắt gặp một vẻ hoài nghi trong ánh mắt Tappey, mà ông ta cố che giấu. Tappey là người dày dạn kinh nghiệm, thường không để lộ tình cảm của mình qua nét mặt, ánh mắt và qua đôi môi. Ông ta luôn giữ vẻ lạnh lùng, khó nhận rõ phản ứng trong lòng ông ta.
Nhưng lúc này Tappey mỉm cười:
- Chắc Tổng thống đã đọc bản tin thế giới do trưởng ban phản gián đã trao cho tôi. Sự việc này quả đúng như ông ta đã nói.
- Nếu vậy, ta sẽ ngăn ngừa toàn bộ vấn đề này bằng cách nào? – Kenneyd hỏi.
Nhưng đây là vấn đề hơi bị cường điệu nên Tappey im lặng không nói gì, Kennedy quyết định đã đến lúc phải nói thẳng ra:
- Tôi hứa với anh rằng tôi có thể thuyết phục Yabril chấp nhận làm một cuộc thử nghiệm kiểm tra não. Tôi sẽ thận trọng với hắn. Công chúng cần biết rõ kết quả kiểm tra xem Yabril có dính líu gì vào vụ đánh bom nguyên tử không và đồng thời chứng tỏ rõ toàn bộ những vụ việc này có nằm trong vụ âm mưu mang tính toàn cầu không.
- Chúng ta thực sự chẳng cần tới câu trả lời của Yabril, đúng không ạ?
- Không, - Kennedy đáp.
Tappey hỏi tiếp:
- Christian có tham gia việc này không?
Kennedy không biết trả lời ra sao. Đây là vấn đề khó xử nhất, ông chưa biết giải quyết ra sao. Mãi sau ông mới chậm rãi bảo:
- Hãy quên Christian đi.
Tappey đã vỡ lẽ. Tappey đưa mắt nhìn Kennedy như người đầy tớ trung thành nhìn chủ chờ được giao phó một công việc sẽ gắn bó mãi mãi chủ và tớ.
- Tôi hy vọng rằng sẽ không nhận được chỉ thị nào ghi bằng văn bản. – Tappey nói.
- Không, - Kennedy đáp. – Tôi sẽ trao cho anh những chỉ thị đặc biệt ngay bây giờ.
- Rất đặc biệt, - Theodore Tappey nói, - nếu Tổng thống thấy tin được, thưa Tổng thống.
Kennedy mỉm cười và bảo:
- Bác sĩ Annaccone chẳng đời nào chịu tiến hành cuộc kiểm tra.
- Thưa Tổng thống, tôi đã rõ ạ. – Tappey nói.
Kennedy nhận thấy rằng chẳng cần phải ngập ngừng ấp úng nữa, ông nêu thẳng vấn đề với Theodore Tappey:
- Sau khi Yabril chấp nhận chịu kiểm tra, tôi sẽ chuyển hắn sang bên y tế trực thuộc CIA các anh. Đội y tế của anh sẽ tiến hành cuộc thăm dò kiểm tra não.
Kennedy đọc được qua ánh mắt của Tappey để lộ một vẻ nghi ngờ, không phải vì dã xúc phạm trắng trợn đạo lý, mà ngại rằng mình không thể thực hiệnd dược.
- Chúng ta không nói đến chuyện giết chóc ở đây, - Kenneyd sốt ruột bảo. – Tôi không đến nỗi ngu xuẩn hoặc mất đạo lý như vậy. Nếu muốn làm chuyện đó, tôi đã bảo Christian làm rồi.
Tappey ngồi giỏng tai chờ.
Kennedy biết rằng mình đã nói ra những lời tai hại.
- Tôi thề rằng đành phải hành động như vậy chỉ cốt để bảo vệ đất nước ta. Dù ngồi tù hoặc được thả ra, phải làm sao để Yabril không còn là mối nguy hại nữa. Tôi muốn đội y tế của anh sử dụng đến mức tối đa giới hạn cho phép trong nghị định thư. Sau khi bị tiêm thuốc vào não kiểm tra, người bị kiểm tra hoàn toàn không còn trí nhớ. Một người không còn trí nhớ, không niềm tin và không nhận thức được tội lỗi là một người vô hại. Hắn sẽ sống một cuộc đời bình lặng.
Kennedy đọc được những điều để lộ trong ánh mắt Tappey. Đó là ánh mắt của một con thú ăn mồi sống, vừa đánh hơi thấy những loài lạ khác cũng độc ác ngang nó.
- Anh có thể tập hợp được một đội có thẻ tiến hành công việc này không? Kennedy hỏi.
- Để tôi giải thích cho rõ tình huống, - Tappey nói. – Họ sẽ không bao giờ được tuyển nếu họ không trung thành với tổ quốc.
Khuya hôm đó, Tappey giải Yabril tới khu vực của Kennedy. Cuộc gặp mặt không kéo dài và Kennedy rất tất bật. Không có trà, chẳng cần phép lịch sự. Kennedy đi thẳng ngay vào việc, ông trình bày lời đề nghị của mình.
Kennedy bảo Yabril:
- Điều cực kỳ quan trọng với Hoa Kỳ là chúng tôi muốn được biết rõ xem anh có đóng một vài trò nào đó trong vụ âm mưu đánh bom nguyên tử hay không. Cốt là để xua tan nỗi sợ của dân chúng thôi. Điều quan trọng đối với anh là tên tuổi của anh phải được xóa sạch trong vụ đặc biệt này. Bây giờ, sự việc rành rành là anh sẽ phải ra tòa vì các tội trạng khác của anh và sẽ bị kết án tù chung thân. Nhưng tôi hứa với anh rằng anh sẽ được liên lạc với bè bạn của anh ở bên ngoài. Chúng ta cứ coi như là họ khá có tình có nghĩa với anh nên sẽ tạo dựng nên một vụ bắt cóc và đòi đổi anh. Tôi sẽ chấp thuận yêu cầu đó. Nhưng tôi chỉ có thể làm được điều đó một khi anh đã rũ sạch tội trong vụ đánh bom nguyên tử... Tôi thấy anh còn có vẻ nghi ngờ.
Yabril nhún vai và nói:
- Tôi thấy lời đề nghị của ông thật quá rộng lượng.
Kennedy dồn tòan bộ sức mạnh để làm việc đáng phải làm. Ông nhớ lạiYabril ve vãn con gái ông, Theresa, trước khi gí súng vào cổ cô. Sự ve vãn tương tự sẽ không xong với Yabril. Ông chỉ có thể thuyết phục con người này bằng cách làm cho hắn tin vào giá trị đạo lý thật sự của chính bản thân ông.
- Tôi làm điều này để xóa bỏ nỗi sợ ra khỏi tâm trí đất nước tôi, - Kennedy nói. – Đây là quan niệm lớn nhất của tôi. Niềm vui của tôi là được thấy anh mãi mãi bị cầm tù. Do đó, tôi đưa ra đề nghị này chẳng qua chỉ vì trách nhiệm của tôi.
- Nếu vậy tại sao ông phải có bộ mặt đau khổ như vậy để thuyết phục tôi? – Yabril hỏi.
- Bản chất của tôi không muốn trưng trách nhiệm, coi đó là một thủ tục, - Kennedy nói và ông nhận thấy Yabril bắt đầu tin ông. Ông lại thấy thoáng qua trong đầu hình ảnh Theresa và niềm tin của con gái ông vào lòng tốt của Yabril. Sau đó ông bảo Yabril: - Ông đã bị thúc ép trước lời đề nghị cho rằng nhân dân ông bố trí vụ nổ một trái bom nguyên tử. Đây là một cơ hội để xóa sạch tên tuổi ông và các bè bạn của ông. Sao ông không chấp nhận? Ông sợ rằng sẽ không vượt qua được cuộc kiểm tra?
Yabril nhìn thẳng vào mắt Kennedy và nói:
- Tôi không tin rằng bất kỳ ai cũng có thể bỏ qua cho tôi những gì tôi đã gây ra cho ông.
Kennedy im lặng. Trông ông mệt mỏi. Nhưng ông đã không bị thất vọng. Đây đúng là bản chất mục nát của Hoa Kỳ khi đưa ra một lời đề nghị như vậy để thực hiện một mục tiêu chính trị phi đạo lý.
Yabril không biết tí gì về những sự việc đã xảy ra trong sáu tháng qua. Gã bị cách ly dấn mình sâu vào hết cuộc hỏi cung này đến cuộc hỏi cung khác. Kennedy giục:
- Chấp nhận cuộc kiểm tra các câu trả lời là hy vọng duy nhất của anh muốn được thả tự do. Tất nhiên là anh vượt qua được.
Kennedy thở dài rồi nói tiếp:
- Tôi không tha thứ cho anh. Nhưng tôi hiểu rõ những hành động của anh. Tôi biết rõ cảm nghĩ của anh khi cho rằng những việc làm của anh sẽ cứu giúp thế giới của chúng ta. Đúng như toi làm điều tôi đang làm lúc này. Và điều này nằm trong phạm vi những quyền hạn của tôi. Chúng ta là những con người khác biệt nhau, tôi không thể làm điều anh làm, còn anh, ý tôi muốn nói, do không có điều kiện, anh không thể làm nổi điều tôi đang làm bây giờ. Nghĩa là trả lại tự do cho anh.
Kennedy buồn bã nhận thấy ông đã thuyết phục được Yabril. Ông tiếp tục thuyết phục gã, ông giở mọi tài trí, mọi sức mê hoặc, tính chính trực của mình. Ông đã để lộ rõ mọi hình ảnh một thời ông đã từng có, để lộ rõ những gì Yabril đã biết về ông trước khi ông để mất toàn bộ bản thân mình để thuyết phục Yabril. Ông biết mình hòan toàn thành công lúc nhìn thấy nụ cười trên mặt Yabril, một bộ mặt đáng thương và đáng coi khinh. Lúc đó ông hiểu rằng mình dã chiếm được niềm tin của Yabril.
Bốn ngày sau cuộc hỏi cung bằng biện pháp y học tiến hành trên não bộ Yabril, sau khi tên khủng bố được trao trả cho FBI canh giữ, gã đã tiếp hai vị khách. Đó là Francis Kennedy và Theodore Tappey.
Yabril hoàn toàn không bị kiềm khống chế và đã được tháo cùm.
Ba người ngồi thanh thản một tiếng đồng hồ uống trà và ăn bánh xănguých nhỏ. Kennedy ngắm kỹ Yabril. Bộ mặt gã xem ra đã thay đổi. Đấy là một khuôn mặt nhạy cảm; ánh mắt u sầu, nhưng vui vẻ. Gã nói ít nhưng chăm chăm nhìn Kennedy và Tappey tựa như muốn tìm lời giải đáp ột điều bí ẩn nào đó.
Xem ra gã toại nguyện. Xem ra gã đã biết rõ mình là ai. Xem ra gã rạng rỡ trước vẻ trong trắng về tâm hồn làm Kennedy không dám nhìn gã và cuối cùng cũng bắt chước gã.
Quyết định về Christian Klee thậm chí còn đau lòng hơn đối với Francis Kennedy. Đây là điều ngạc nhiên bất ngờ cho Christian. Kennedy mời Christian tới Phòng Yellow họp riêng.
Nhưng Francis Kennedy bắt đầu cuộc họp bằng cách vội vã nói:
- Anh Christian, tôi đối với anh thân thiết hơn bất kỳ một ai ngoài gia đình tôi. Tôi cho rằng chúng ta hiểu rõ nhau rõ hơn bất kỳ ai biết về chúng ta. Do đó anh hiểu rằng tôi buộc lòng phải yêu cầu anh từ chức ngay sau lễ nhận chức.
Christian Klee đưa mắt nhìn khuôn mặt thanh nhã đang dịu dàng mỉm cười. Ông ta đã không tin rằng Kennedy thải ông mà không hề có lời giải thích nào. Ông ta vội nói:
- Tôi biết rằng tôi đã hơi đi ngang đi tắt nơi này chỗ khác một chút. Nhưng mục tiêu tối cao của tôi là bảo vệ anh khỏi bị hại.
- Anh để vụ âm mưu đánh bom hạt nhân bùng nổ. Anh có thể ngăn chặn vụ đó. Christian Klee rất lạnh lùng cân nhắc tình huống. Ông ta không bao giờ có thể yêu mến Kennedy như trước. Ông ta không bao giờ tin vào lòng nhân đạo của chính Kennedy, vào tính đúng mức của những việc Kennedy đã làm. Bỗng nhiên, ông ta nhận thấy rằng mình không bao giờ có thể chịu đựng nổi gánh nặng này. Lẽ ra Francis Kennedy phải chia sẻ trách nhiệm về những chuyện đã xảy ra, thậm chí cả những chuyện thầm kín.
Christian Klee nhìn thẳng vào cặp mắt xanh lơ mà ông ta đã biết quá õ và tìm kiếm một chút vẻ nhân từ.
- Anh Francis, - Christian Klee nói, - anh đã muốn tôi làm những điều tôi đã làm. Cả hai ta đều biết rõ đấy là điều duy nhất có thể cứu anh – tôi biết anh không thể ban một quyết định như vậy. Vì nó sẽ diệt anh, anh đã quá yếu, anh Francis. Anh Francis, mong anh đừng kết tội tôi, phán xét tôi. Họ đã có thể cách chức anh và anh không bao giờ chịu đựng nổi điều đó. Anh đã rất thất vọng và tôi là người duy nhất nhận biết điều đó. Họ dã không để anh trả thù cho con gái anh. Họ đã có thể trả tự do cho Yabril, họ đã có thể để Hoa Kỳ bị lâm vào tình trạng nhục nhã.
Nói đến đây, Christian Klee ngừng lời, ông sửng sốt nhận thấy Francis Kennedy vẫn điềm tĩnh nhìn ông ta. Mãi sau Kennedy mới lên tiếng:
- Như vậy anh cho rằng tôi hành động chỉ là để trả thù thôi đấy.
- Không phải trả thù Yabril, - Christian Klee nói, - mà để trả thù số phận.
- Anh có thể ở lại cho tới sau lễ nhậm chức, - Kennedy bảo. – Anh giữ một chức vụ nguy hiểm, một chiếc bia đấy. Tôi muốn anh rời khỏi vị trí này để có thể dẹp đi những chuyện lộn xộn.
Kennedy ngừng lời một lát, rồi nói tiếp:
- Anh đã lầm khi cho rằng anh đã làm những điều tôi muốn anh làm, anh Chris. Anh đã lầm khi cho rằng tôi hành động chỉ vì ham muốn trả thù.
Christian Klee cảm thấy một sự sụp đổ chưa rõ nét cuốn ông ta bứt ra khỏi thế giới của mình, một nỗi đau mà ông ta thậm chí chưa xác định được. Ông ta nói:
- Anh Francis, tôi biết anh, tôi hiểu anh. Chúng ta luôn sống với nhau như hai anh em ruột. Tôi luôn cảm thấy như vậy, luôn cảm thấy chúng ta thật sự là hai anh em ruột. Và tôi đã cứu anh đúng như thể người anh em mới có thể làm vậy. Tôi đã quyết định, tôi có tội. Tôi có thể để thế giới lên án tôi, chứ không phải anh.
Christian Klee ngừng lời một lát, rồi nói tiếp:
- Anh Francis, anh càn có tôi. Thậm chí cả sau này, một khi anh đang đi theo chiều hướng hành động như anh đang tiến hành. Anh nên giữ tôi lại.
Francis Kennedy thở dài, rồi nói tiếp:
- Anh Christian, tôi đâu có vặn vẹo về lòng trung kiên của anh. Nhưng sau lễ nhậm chức, anh sẽ ra đi. Chúng ta sẽ không bao giờ tranh luận về vấn đề này nữa.
- Tôi đã làm vậy để cứu anh. – Christian Klee nói.
- Và anh đã làm. – Kennedy bảo.
Christian Klee nghĩ tới cái ngày đầu tháng Chạp bốn năm trước đây khi Francis Kennedy, vị Tổng thống vừa được bầu của Hoa Kỳ, đã đứng đợi ông ta ở bên ngoài tu viện tại Vermont. Kennedy biến mất tăm suốt cả một tuần lễ. Báo chí và các chính khách đối thủ của ông đã đoán rằng ông đi điều dưỡng tâm thần, ông đã bị suy nhược, họ thậm chí còn dựng chuyện ông đi lén lút dan díu. Nhưng chỉ có hai người – cha tu viện trưởng và Christian Klee – biết rõ sự thật. Francis Kennedy rút vào sống ẩn dật để được hòan toàn tĩnh tâm chịu tang vợ.
Đúng một tuần sau khi trúng cử, Christian Klee đã phải tự lái xe đưa Kennedy đến nhà thờ Thiên chúa giáo nằm ngay ngoài White River Junction ở Vermont. Họ chào hỏi cha tu viện trưởng là người biết rõ Kennedy là ai. Khi chia tay, Christian Klee tự hỏi không biết chuyện gì sẽ xảy ra với Kennedy trong suốt một tuần lễ sắp tới. Ông ta suýt phát khóc. Ông ta ôm vai Kennedy và nói:
- Anh có muốn tôi ở lại với anh không?
Kennedy lắc đầu và bước vào trong cửa tu viện.
Hôm sau Neol là một ngày đẹp trời, cả thế giới như nằm gọn dưới một chiếc lồng kính, bầu trời trong vắt tựa gương soi, còn mặt đất rám nắng vàng ngả màu thép.
Khi Christian Klee đưa xe đến đón Kennedy, vừa tới cổng tu viện, ông ta đã thấy Kennedy đứng một mình đợi, không có hành lý gì, hai tay Kennedy giơ cao lên trời, người vươn thẳng. Ông gần như hân hoan sắp được tự do.
Christian Klee bước ra để chào Kennedy. Kennedy vội ôm chầm lấy ông ta, miệng hớn hở gào to lời chào nồng nhiệt. Kennedy tưởng chừng như đã trẻ lại sau những ngày sống tại tu viện. Ông mỉm cười với Christian và đây là nụ cười tươi ít khi thấy đã từng làm say mê dân chúng. Nụ cười làm yên lòng thế giới rằng hạnh phúc đã chiến thắng, con người tốt đẹp, thế giới mỗi ngày một tốt hơn. Đây là nụ cười làm ta thấy mén yêu Kennedy vì niềm vui trong ánh mắt ông đã lan tỏa sang ta. Christian Klee có đựoc cảm giác ấy khi nhìn thấy nụ cười đó. Francis Kennedy đã ổn rồi. Ông lại khỏe khoắn như trước đây. Ông sẽ là niềm hy vọng của thế giới, người vệ sĩ cường tráng và người bạn tốt của đất nước ông. Bây giờ hai người sẽ cùng nhau lập nên những kỳ công lớn.
Vẫn giữ nụ cười rạng rỡ trên môi, Kennedy cầm tay Christian Klee, mắt nhìn thẳng vao ánh mắt ông ta và hồn nhiên, nhưng dí dỏm nói:
- Thượng đế đã chẳng giúp được gì.
Vào buổi sáng mùa Đông trong sáng đó, Christian Klee đã nhìn thấy trong bản thân con người Kennedy cuối cùng đã có một sự đổ vỡ. Kennedy sẽ chẳng còn là con người như trước đây. Kennedy có thể hòan toàn là con người như trước đây song trong ông đã nảy sinh một tí chút vẻ giả tạo chưa từng thấy có. Christian Klee nhận thấy chính bản thân Kennedy không nhìn nhận rõ và cũng chẳng một ai thấy được điều đó. Chỉ mỗi mình Christian Klee nhận rõ vì có mỗi mình ông có mặt tại đó vào chính thời điểm ấy để được nhìn thấy nụ cười rạng rỡ và nghe được những lời dí dỏm:
- “Thượng đế đã chẳng giúp gì được cả”.
Christian Klee đáp:
- Biết giúp gì, anh mới chỉ dâng Người có bảy ngày.
Kennedy cười rồi nói:
- Ông ấy là người bận rộn.
Sau đó hai người lên xe ô tô. Họ đã được hưởng một ngày tuyệt vời. Chưa bao giờ Kennedy ở tỏng tama trạng dí dỏm và phán chấn như vào ngày hôm đó. Ông đưa ra biết bao kế hoạch, lòng ông đầy lo lắng cố nghĩ cách tập hợp chính phủ của mình và tạo nên những điều kỳ diệu trong bốn năm sắp tới. Xem ra ông là một con người đã vượt qua được nỗi bất hạnh của mình, đã lấy lại được nghị lực. Christian đã gần như tin chắc như vậy.
Christian Klee bắt đầu thu xếp mọi việc để chuẩn bị rời khỏi chính phủ. Một trong những việc quan trọng nhất là phải xóa sạch mọi dấu vết mà ông ta đã vi phạm luật pháp khi còn đang bảo vệ Tổng thống. Ông ta xóa hết các tài liệu theo dõi bất hợp pháp những hội viên Câu lạc bộ Socrates lưu trong các đĩa vi tính.
Ngồi sau chiếc bàn to rộng trong văn phòng chưởng lý, Christian Klee đã sử dụng máy vi tính của mình để xóa những hồ sơ buộc tội. Cuối cùng, ông ta gọi cho hiện lên màn vi tính hồ sơ của David Jatney. Mình đã suy nghĩ không sai về anh chàng này. Christian Klee thầm nghĩ, y là quân bài J trong ván bài. Bộ mặt bảnh trai sẫm màu này khôgn cân xứng với ánh mắt của một kẻ mất tâm trí. David Jatney có đôi mắt ngời sáng với ánh vẻ của một gã mà hệ thần kinh đang tự xung đột với chính bản thân con người mình. Thông tin mới nhất thông báo cho biết y đang trên đường đi Washington.
Tên này có thể sinh chuyện rắc rối. Sau đó Christian Klee nhớ lại lời tiên đoán của Oracle. Khi một con người đã vươn lên tới quyền lực tuyệt đối, người đó thường gạt loại những ai đã quá thân cận với mình, gạt loại những ai đã biết rõ những chuyện bí mật của mình. Christian Klee đã từng yêu mến Fancis Kennedy vì những đức tốt của ông. Từ rất lâu xảy ra những chuyện cần giữ bí mật. Christian Klee đã từng suy ngẫm điều này suốt một thời gian dài. Và sau đó, ông ta đã thầm nhủ, cứ để mặc số phận quyết định. Dù thế nào đi nữa, ông ta, Christian Klee, không thể bị ai chê trách được.
Christian Klee bấm một nút trên máy vi tính. David Jatney biến mất tăm không hề để lại dấu vết gì trong toàn bộ hồ sơ của nhà nước.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...