Phần hai:
TRƯỞNG THÀNH
Chương một
Thung lũng Cười
Khi Claus tới, thung lũng này vẫn trống trơn, chẳng có gì ngoài cỏ, dòng suối, hoa dại và những đàn ong, đàn bướm. Nếu muốn biến nơi đây thành nơi ở của mình và sống theo kiểu của loài người, chàng cần phải có một ngôi nhà. Lúc đầu, điều này đã làm cho Claus bối rối, nhưng khi đứng mỉm cười dưới ánh nắng mặt trời, chàng chợt thấy Nelko già nua, người hầu của vị thần rừng, đang đứng cạnh mình. Nelko cầm theo một cái rìu, chắc chắn và to bản, có lưỡi sáng bóng như được làm bằng bạc. Lão đặt nó vào tay chàng trai trẻ, rồi biến mất mà chẳng nói một lời.
Claus đã hiểu ra, liền quay về rìa rừng và chọn lấy một số thân cây đang nằm trên mặt đất, cắt tỉa đi những nhánh cây khô héo. Chàng sẽ không cắt vào thân của một cái cây nào đang sống. Quãng đời sống với những nữ thần rừng đã dạy cho chàng bi rằng, một cái cây đang sống là một thứ thiêng liêng, là thứ được tạo hóa sinh ra cùng với những cảm giác của riêng nó. Nhưng với những cây đã chết hoặc đã gục xuống thì lại là chuyện khác. Chúng đã hoàn thành số phận của mình với tư cách là một thành viên tích cực của cộng đồng rừng, và giờ thì sẽ là hợp lí nếu những phần còn sót lại của chúng được dùng để phục vụ cho nhu cầu của loài người.
Lưỡi rìu ngập sâu trong những khúc gỗ vào mỗi lần cắt, tựa hồ như có một sức mạnh bên trong, và Claus chẳng phải làm gì ngoài việc vung lưỡi rìu lên và định hướng đi cho nó.
Khi bóng tối lướt qua những ngọn đồi xanh và tràn tới thung lũng, chàng trai trẻ đã chặt xong những khúc gỗ thành nhiều miếng đều nhau và có hình dạng thích hợp để dựng một ngôi nhà, giống như kiểu nhà mà chàng đã thấy những người nghèo sinh sống. Thế rồi, khi đã quyết định sẽ đợi tới ngày hôm sau mới bắt đầu lắp ghép những miếng gỗ, Claus ăn một vài rễ cây ngọt mà chàng biết rõ chỗ tìm, uống nước từ con suối, nằm ngủ trên thảm cỏ, và tìm một chỗ không có hoa mọc để cho sức nặng cơ thể chàng không làm nát chúng.
Và trong khi đang ngủ ngon lành, hít thở hương thơm của thung lũng tuyệt vời này, Tâm trạng Hạnh phúc đã len lỏi vào tim chàng và xua đi tất cả những nỗi khiếp sợ, lo lắng và nghi ngờ. Gương mặt Claus sẽ không bao giờ bị những đám mây lo lắng bao phủ; những thử thách trong cuộc sống sẽ không bao giờ là gánh nặng đối với chàng. Thung lũng Cười đã tiếp nhận chàng.
Giá mà tất cả chúng ta đều được sống ở một nơi tuyệt vời như vậy! - nhưng nếu thế thì rất có thể thung lũng này sẽ lại trở nên quá đông đúc và chật chội. Đã nhiều năm rồi, nơi ấy vẫn chờ đợi một người chủ đến định cư. Liệu có phải do tình cờ mà Claus đã chọn thung lũng hạnh phúc này làm nhà? Hay chính những người bạn chu đáo, các vị thần tiên kia, đã dẫn lối cho bước chân của chàng khi chàng lang thang rời khỏi Burzee để tìm một chỗ trong cái thế giới rộng lớn vĩ đại này?
Có một điều chắc chắn là, khi mặt trăng lên ngang đỉnh đồi và chiếu những tia sáng mềm mại lên thân thể của vị khách lạ đang nằm ngủ, thì cả Thung lũng Cười cũng tràn ngập bóng của những Knook thân thiện. Họ không nói gì cả, nhưng làm việc rất khéo léo và nhanh nhẹn. Những miếng gỗ mà Claus đã xẻ ra bằng rìu được tập hợp tại một vị trí bên dòng suối, rồi lần lượt được ghép lại với nhau, và chỉ trong một đêm, một ngôi nhà vững chắc, rộng rãi đã được dựng lên.
Khi bình minh thức giấc, những cánh chim bay tràn tới thung lũng, và những bài ca của chúng, rất ít khi được nghe thấy trong rừng thẳm, đã đánh thức vị khách lạ của chúng ta. Chàng dụi mắt, nhìn quanh và chợt thấy ngôi nhà.
“Ta phải cảm ơn các bạn Knook vì chuyện này mới được,” chàng nói, đầy vẻ biết ơn. Thế rồi chàng bước tới ngôi nhà của mình và đi qua cửa chính. Trước mặt chàng là một căn phòng lớn, với bếp lửa ở cuối phòng, một cái bàn và một chiếc ghế dài ở giữa phòng. Cạnh bếp lửa là một chiếc tủ. Sau đó là một cái cửa khác. Claus bước vào, đó là một căn phòng nhỏ hơn, với một chiếc giường kê sát tường và một chiếc ghế đẩu đặt kề một cái giá nhỏ. Trên giường có rất nhiều lớp rêu khô được lấy từ trong rừng.
“Đây thực là một cung điện!” Claus thốt lên vui sướng. “Ta phải cảm ơn các bạn Knook tốt bụng một lần nữa, vì họ đã thấu hiểu về nhu cầu của một con người, và vì họ đã lao động giúp ta.”
Claus bước ra ngoài căn nhà với một cảm giác vui vẻ, vì chàng vậy là hoàn toàn không cô đơn trong thế giới này, mặc dù đã chọn việc từ bỏ cuộc sống nơi rừng sâu. Tình bạn không dễ bị cắt đứt và các vị thần tiên luôn có mặt khắp mọi nơi.
Khi đến bên dòng suối, chàng uống nước ở đó, rồi ngồi xuống ven bờ cười vui với những gợn sóng láu lỉnh đang vui đùa khi chúng lũ lượt xô vào những tảng đá, hoặc khi chúng chen chúc một cách tuyệt vọng để xem con sóng nào tới được chỗ rẽ đằng xa trước tiên. Và trong khi những gợn sóng chạy đua, chàng nghe được bài ca chúng hát:
“Cuốn, xô, nào chúng ta đi!
Không con sóng nào trôi chậm được -
Tất thảy quá hân hoan.
Từng giọt đều sung sướng,
Trên đường cùng xô nhau cuốn
Chúng ta thành bụi nước vui tươi!”
Kế đó Claus đi tìm rễ cây để ăn, trong lúc đám hoa thủy tiên vàng hướng những cặp mắt nhỏ xíu về phía chàng cười vui và rì rào hát một bài ca dễ thương của chúng:
“Nở thật đẹp, bung thật chậm,
Những bông hoa con vui quá là vui!
Vừa phô sắc
Vừa tỏa hương
Chúng ta để lại niềm vui sướng.”
Claus cười vang khi nghe những tạo vật bé nhỏ vừa nói về niềm hạnh phúc của mình vừa đung đưa nhẹ nhàng trên những nhành hoa. Nhưng một giai điệu khác lại lọt vào tai khi những tia sáng mặt trời rơi nhẹ lên khuôn mặt chàng và thì thầm:
“Này đây niềm vui,
Khi những tia sáng của chúng ta
ngày qua ngày sưởi ấm cho thung lũng;
Này đây niềm hạnh phúc>
Được an ủi cho tất thảy những ai đang sống!”
“Vâng,” Claus reo lên đáp lời, “hạnh phúc và niềm vui có trong tất cả mọi thứ ở đây. Thung lũng Cười là một thung lũng của an bình và lòng tốt.”
Chàng dành cả ngày để nói chuyện với những chú kiến và những con bọ, kể chuyện cười với những con bướm vui tính. Khi đêm về, chàng nằm trên giường của mình kết bằng thảm rêu mềm và ngủ rất ngon.
Thế rồi các nàng tiên xuất hiện, rất vui mừng nhưng vẫn giữ lặng im, mang đến cho Claus nào là chảo rán, xoong nồi, đĩa và tất cả những dụng cụ cần thiết để nấu ăn và phục vụ cho cuộc sống của một con người trần tục. Họ chất đầy đồ lên giá đựng thức ăn và xung quanh bếp lửa, và cuối cùng vắt một bộ trang phục rất bền làm từ vải len lên chiếc ghế đẩu ở cạnh giường.
Khi Claus thức dậy, chàng dụi mắt và phá lên cười, rồi nói to thành lời để cám ơn các nàng tiên và vị thần rừng - người đã ra lệnh cho các nàng tiên làm điều đó. Chàng thử tất cả các món đồ mới của mình một cách háo hức, đôi lúc băn khoăn không biết một vài thứ dùng để làm gì. Nhưng, trong những ngày bám vào thắt lưng của Ak vĩ đại và đi thăm những thành phố của loài người, chàng đã ghi nhớ rất nhanh tất cả những cung cách và phong tục của đồng loại mình; do vậy, từ những món quà mà các nàng tiên đem đến, chàng đoán chừng rằng vị chúa tể kia muốn chàng từ nay về sau cũng sống giống như đồng loại của mình.
“Điều ấy có nghĩa là ta phải cày đất và gieo lên đó những hạt ngũ cốc,” chàng suy nghĩ, “và khi mùa đông đến, ta sẽ có rất nhiều thức ăn.”
Nhưng khi đứng giữa thung lũng đầy cỏ này, chàng nhận ra rằng, để biến mặt đất thành những luống cày, chàng sẽ phải phá bỏ đi hàng trăm bông hoa xinh đẹp không nơi nương tựa, cũng như hàng ngàn lá cỏ mềm khác. Mà chàng thì không chịu nổi nếu phải làm điều ấy.
Thế là chàng giang rộng cánh tay và huýt lên một tiếng sáo lạ kỳ mà chàng đã học được trong rừng thẳm, rồi kêu lên:
“Hỡi những vị Ryl của các bông hoa trên đồng - hãy đến với ta!”
Ngay lập tức, khoảng một tá các Ryl nhỏ bé kỳ lạ đã đến ngồi trên mặt đất, ngay trước mặt chàng, và họ gật đầu chào chàng với vẻ mừng rỡ.
Claus tha thiết nhìn thẳng vào họ.
“Những anh em ở trong rừng của các vị,” chàng nói, “ta đều quen và yêu quí suốt bao năm qua. Ta cũng sẽ yêu quí các vị khi chúng ta trở thành bạn của nhau. Đối với ta, luật của Ryl, bất kể là ở trong rừng hay trên đồng cỏ, đều rất thiêng liêng. Ta không bao giờ cố tình phá đi dù chỉ là một cây hoa mà các vị đã chăm sóc rất chu đáo; nhưng ta sẽ phải gieo trồng những hạt ngũ cốc để làm thực phẩm dự trữ cho mùa đông lạnh giá, và bằng cách nào đây để ta có thể làm việc này mà không phải giết đi những tạo vật bé nhỏ đã hát với ta thật dễ thương về những nụ hoa thơm tho của chúng?”
Ryl Vàng, kẻ chăm sóc những cây mao lương hoa vàng, trả lời:
“Đừng muộn phiền như thế anh bạn Claus! Ak vĩ đại đã nói với tụi này về cậu. Đối với cậu, sẽ có những việc còn hay hơn là đi làm lụng kiếm miếng ăn, và mặc dù không thuộc về rừng, cũng như Ak không hề ra lệnh, nhưng tụi này luôn sẵn lòng ưu ái cho người mà Ak yêu quí. Do vậy hãy sống để làm những việc tốt mà cậu đã quyết tâm làm. Chúng ta, những Ryl của đồng cỏ, sẽ cung cấp thức ăn cho cậu.”
Nói xong các Ryl biến mất, và Claus bỏ luôn ra khỏi đầu ý định về việc cày bừa trên mặt đất.
Sau đó, khi chàng trở về nhà, đã có ngay một bát sữa tươi được đặt sẵn trên bàn; có bánh mì trong chạn đựng thức ăn và có mật ong ngọt tràn đầy trong một cái đĩa nằm bên cạnh. Một chiếc giỏ xinh xắn đựng những quả táo hồng và những chùm nho mới hái cũng đang nằm đợi chàng. Chàng thốt lên “ cảm ơn, hỡi những người bạn của ta!” với những vị Ryl tàng hình, và ngay lập tức bắt đầu bữa ăn của mình.
Từ đó về sau, mỗi khi thấy đói, Claus chỉ việc tìm thức ăn trong chạn do những Ryl tốt bụng cung cấp. Còn các Knook thì chặt và xếp rất nhiều củi vào trong bếp lửa cho chàng. Những nàng tiên thì đem tới cho chàng chăn và quần áo.
Chương hai
Claus đã làm món đồ chơi đầu tiên như thế nào
Thực vậy, Claus của chúng ta rất sáng suốt. Số phận may mắn của chàng chỉ làm chàng càng quyết tâm kết bạn với những em nhỏ đồng loại của mình. Chàng biết kế hoạch của mình đã được các vị thần tiên bất tử chấp thuận, nếu không họ đã chẳng ưu ái chàng nhiều đến vậy.
Vậy là ngay lập tức chàng bắt tay vào làm quen với loài người. Chàng ra khỏi thung lũng để tới vùng đồng bằng phía bên kia, và băng qua đồng bằng theo nhiều hướng khác nhau để tới được nơi ở của loài người. Nhà của họ có thể đứng đơn độc một chỗ hoặc tụ tập với nhau thành nhóm gọi là làng, và gần như trong tất cả các ngôi nhà, dù lớn hay nhỏ, Claus đều thấy có trẻ em.
Những bạn nhỏ chẳng mấy chốc đã quen với gương mặt vui vẻ, tươi cười và ánh mắt sáng trong hiền lành, tốt bụng của chàng; còn các bậc cha mẹ, trong khi nhìn chàng trai với vẻ miệt thị vì chàng thích trẻ con hơn bố mẹ chúng, cũng hài lòng vì những cô bé và cậu bé của họ đã tìm được một người bạn sẵn lòng làm chúng vui.
Thế là bọn trẻ nô đùa và chơi nhiều trò chơi với Claus. Các cậu bé trèo lên vai chàng, các cô bé nép trong cánh tay mạnh mẽ của chàng, còn đám em bé bám chặt lấy chân chàng. Bất cứ nơi nào tình cờ có mặt chàng, nơi ấy có theo tiếng cười trẻ nhỏ; và để hiểu được điều này rõ hơn, bạn phải biết rằng thời đó trẻ em thường bị bỏ rơi và hiếm khi được bố mẹ chăm sóc, cho nên đối với chúng, quả là một điều kỳ diệu khi có một người tốt bụng như Claus chịu bỏ thời gian để làm chúng hạnh phúc. Và những đứa trẻ quen biết chàng, bạn có thể chắc chắn rằng, chúng quả thật vô cùng hạnh phúc. Những gương mặt buồn so của những đứa trẻ nghèo và bị ngược đãi đã trở nên rạng rỡ; những bé tàn tật đã mỉm cười, dù cho số phận mình có kém may mắn; những bé đau ốm thôi không rên rỉ nữa; những bé đang buồn thì ngừng khóc ngay lập tức mỗi khi người bạn vui vẻ này đến bên an ủi chúng.
Chỉ có cung điện lộng lẫy của vị chúa Lerd và lâu đài nguy nga của Baron Braun là những nơi không đón nhận Claus. Cả hai chỗ ấy đều có trẻ con; nhưng đám người hầu ở cung điện đã đóng sập cửa ngay trước mặt vị khách trẻ này, còn Baron dữ tợn thì dọa treo chàng lên cái móc sắt trên những bức tường của lâu đài. Claus thở dài buồn bã và quay trở về với ngôi nhà của những người nghèo, nơi chàng được mọi người chào đón.
Sau một thời gian, mùa đông đã đến rất gần.
Những bông hoa đã sống hết cuộc đời mình, héo đi và biến mất; những con bọ chui sâu xuống để sống trong lòng đất ấm áp; những con bướm bỏ thảm cỏ mà đi; và tiếng suối trở nên khàn khàn, như thể đang bị nhiễm một cơn cảm lạnh.
Một ngày kia, những bông tuyết rơi ngập bầu trời của Thung lũng Cười, huyên náo xô về phía mặt đất và phủ lên mái nhà của Claus một lớp áo khoác trắng muốt.
Tối hôm đó, Jack Sương Giá gõ cửa.
“Vào đi!” Claus kêu lên.
“Ra đi!” Jack trả lời, “vì ngươi có bếp lửa trong nhà.”
Thế là Claus bước ra. Chàng đã quen Jack Sương Giá từ hồi còn ở trong rừng, và chàng cũng thích cái gã lêu lổng vui tính này, ngay cả khi chàng không tin tưởng gã.
“Sẽ có một trò giải trí hiếm hoi cho ta đêm nay đây, Claus!” gã yêu tinh gào lên. “Thời tiết này quá tuyệt, phải không? Ta sẽ vặt rụng cả đống mũi, tai và ngón chân trước lúc rạng đông.”
“Nếu ngươi yêu quí ta, Jack, thì hãy tha cho bọn trẻ,” Claus cầu xin.
“Tại sao?” gã kia hỏi lại, ngạc nhiên.
“Chúng thật non nớt và chẳng biết bấu víu vào đâu,” Claus trả lời.
“Nhưng ta lại thích vặt mấy thứ đó ở những kẻ non nớt!” Jack tuyên bố. “Những kẻ lớn tuổi hơn lại rất dai, làm mỏi cả tay ta.”
“Bọn trẻ rất yếu ớt và không thể đánh lại ngươi,” Claus nói.
“Đúng vậy,” Jack đồng ý và trầm tư suy nghĩ. “Được rồi, ta sẽ không cấu véo một đứa trẻ nào trong đêm nay - nếu ta có thể cưỡng lại sự cám dỗ,” hắn hứa. “Chúc ngủ ngon, Claus!”
“Chúc ngủ ngon.”
Chàng trai trẻ trở vào nhà và đóng cửa lại, còn Jack Sương Giá thì chạy tiếp tới ngôi làng gần đó nhất.
Claus ném một khúc gỗ vào bếp, khiến cho ngọn lửa cháy bùng lên. Bên cạnh nền bếp lửa có Blinkie đang ngồi, đó là con mèo to mà Peter the Knook đã tặng cho chàng. Lông của Blinkie rất mềm và bóng mượt, và con mèo cứ rừ rừ những bài hát bất tận của mình về sự mãn nguyện.
“Ta sắp sửa không gặp lại được bọn trẻ rồi,” Claus nói với con mèo, và Blinkie tạm ngừng hát để lắng nghe. “Mùa đông đã tới, tuyết sẽ rất dày trong nhiều ngày tới, và ta sẽ không thể chơi với những người bạn nhỏ của mình.”
Con mèo nhấc một chân lên và gãi gãi mũi trầm ngâm, nhưng không đáp lời. Một khi bếp lửa vẫn cháy và Claus vẫn ngồi trong chiếc ghế bên cạnh lò thì nó chả thèm để tâm đến thời tiết.
Nhiều ngày dài nhiều đêm thâu đã trôi qua. Chạn vẫn luôn đầy thức ăn, nhưng Claus trở nên mệt mỏi vì không có gì để làm, ngoài việc giữ lửa cho lò sưởi nhờ một đống củi to mà các Knook đã đem đến.
Một buổi tối nọ, chàng nhặt lên một khúc gỗ và bắt đầu đẽo gọt bằng con dao sắc của mình. Thoạt tiên chàng chẳng nghĩ gì ngoài việc để giết thời gian, và chàng huýt sáo rồi hát cho con mèo nghe trong lúc gọt đi những mẩu gỗ nho nhỏ. Con mèo vừa ngồi chồm chỗm quan sát chàng, vừa lắng nghe những giai điệu huýt sáo vui vẻ của cậu chủ, nó thích nghe tiếng huýt sáo ấy hơn cả những bài ca của chính mình.
Claus liếc nhìn con mèo, rồi lại nhìn vào khúc gỗ mà chàng đang đẽo, đến giờ thì khúc gỗ ấy đã bắt đầu có hình thù và trông giống như đầu một con mèo với hai tai vểnh.
Claus ngừng huýt sáo và phá lên cười, sau đó cả chàng và con mèo đều nhìn vào khúc gỗ đầy ngạc nhiên. Tiếp theo, chàng khắc thêm cặp mắt, cái mũi và gọt tròn phần dưới của cái đầu để cho nó tựa trên một cái cổ.
Con mèo lúc này chỉ mới lờ mờ biết đó là cái gì, và nó ngồi dậy thẳng đơ, tò mò theo dõi bước kế tiếp.
Claus thì biết rõ. Miếng gỗ hình đầu mèo cho chàng một ý tưởng. Chàng miệt mài đưa lưỡi dao một cách tỉ mỉ và khéo léo, dần dần tạo nên cái thân mèo trong tư thế đang ngồi chồm chỗm giống hệt như con mèo thật, với cái đuôi quấn vòng quanh hai chân trước.
Việc này chiếm khá nhiều thời gian, nhưng đêm thì dài mà Claus lại không có việc gì hay hơn để làm. Cuối cùng chàng nhìn vào thành quả lao động của mình mà cười to vui sướng, rồi đặt con mèo gỗ giờ đã hoàn thiện lên sàn bếp lửa, đối diện với con mèo thật.
Ngay lập tức con mèo thật nhìn chằm chằm vào hình ảnh của mình, lông dựng lên đầy giận dữ, kêu lên một tiếng meo đầy thách thức. Con mèo gỗ chẳng phản ứng gì, và Claus, vô cùng thích thú, lại phá lên cười tiếp.
Thế rồi Blinkie tiến tới chỗ con mèo gỗ để nhìn nó gần hơn và hít hà một cách thông minh: mũi và cặp mắt mách bảo Blinkie, rằng sinh vật này chỉ là một cục gỗ, dù cho dáng vẻ bên ngoài có giống y như thật; cho nên con mèo trở về chỗ ngồi và tiếp tục rừ rừ hát, nhưng trong lúc dùng chân rửa mặt một cách gọn gàng, con mèo liếc nhìn thán phục cậu chủ khéo tay của mình không chỉ một lần. Có lẽ nó cũng có cảm giác thỏa mãn như khi chúng ta nhìn bức ảnh đẹp của chính mình.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...