Câu chuyện của nhà phát minh
Mẹ charlie đang ngồi trên một chiếc ghế lớn chạm trổ, ngay gần cánh cửa chính. Mới đầu Charlie chưa nhìn thấy mẹ, vì mẹ nó bị thân hình vạm vỡ của giáo sư Bloor che khuất. Ông ta đang nói chuyện với mẹ Charlie một cách nghiêm trọng, còn bà Amy trông cứ thấp thỏm như một nữ sinh vừa làm điều gì sai trái. Khi thấy Charlie, bà vẫy nhẹ nó một cái và mỉm cười một cách lo lắng.
Giáo sư Bloor quay người lại.
“A, cậu ấy đây rồi,” ông ta cố tỏ ra hồ hởi. “Ta đang thông báo cho mẹ con biết con đã học tốt như thế nào trong tuần lễ đầu tiên, ngoại trừ... ờ... phạm một tội nhẹ trong vụ áo chùng.”
“Thưa ông, đúng thế ạ.” Charlie không biết sẽ phải giải thích với mẹ như thế nào đây về cái áo chùng bị xé rách. Thôi thì cứ giấu nhẹm đi, nó quyết định như thế.
Mẹ Charlie đứng lên, hôn vội lên má nó một cái và dắt nó đi thật nhanh ra cửa, không để ông Bloor kịp nói thêm tiếng nào nữa.
“Cuối tuần vui vẻ nhé,” giáo sư Bloor nói với theo, giả đò như không biết là đã cướp đi mất đứt hơn phân nửa kỳ cuối tuần của Charlie.
“Vâng, thưa ông,” Charlie đáp lời, cũng giả đò quên thêm vào tiếng cảm ơn.
Mẹ Charlie không đả động gì đến cái tội nhẹ của nó.
“Mẹ hi vọng con không ngán đi bộ chứ, Charlie. Trời chưa đủ tối nên ông cậu Paton chưa ra ngoài được, mà mẹ thì không kiếm đủ tiền để đi taxi. Và vì con đã lỡ mất chuyến xe buýt của trường, nên...”
“Không sao đâu, mẹ.”
“Họ thật không phải chút nào. Ai lại phạt cấm túc con ngay tuần đầu tiên,” bà bức bối nói. “Mà thôi, quên vụ này đi, đúng không? Ngoại Maisie đã nấu tất cả những món con thích.”
Charlie cảm thấy đói ngấu.
Họ băng qua quảng trường có vòi phun nước, rồi đi vào một con hẻm dẫn ra Phố Lớn. Đúng lúc đi được nửa con phố, thì Charlie nhận ra bên kia đường có một lão già đang bám theo hai mẹ con nó.
Ngay lập tức, Charlie biết đó là ai. Màn cải trang thiệt là vô vọng. Quần áo trông chẳng hợp gì cả, bộ râu quai nón màu trắng trông biết ngay là râu giả, không “ăn” chút nào với mớ tóc đỏ rực lòi ra sau cái nón lưỡi trai cũ sờn.
“Mẹ, mình đi nhanh hơn được không, mẹ?” Charlie hỏi. “Có người bám theo mẹ con mình.”
“Bám theo?” Bà Amy đứng sững lại và ngoái ra sau. “Ai đi theo chúng ta?”
“Có một thằng đấy mà,” Charlie nói với mẹ. “Nó ở bên kia đường. Lạ thật, vì nó biết nhà mình rồi mà. Hình như nó bám theo chỉ để hù cho mẹ con mình sợ thôi!”
“Nhanh lên, Charlie!” Bà Amy túm lấy cánh tay Charlie và kéo tuột nó vô một ngỏ hẻm khác. “Đường này đi sẽ lâu hơn, nhưng mẹ không thể chịu nổi chuyện bị theo dõi.”
Charlie nhớ ra, trước đây việc này đã từng diễn ra với mẹ nó. Ngay sau đám cưới, ba nó đã bắt đầu phải nơm nớp ngoái nhìn lại sau. Mẹ nó đã kể với họ như thế. Nhưng lúc đó ai đã đi theo họ?
Lúc này, mẹ Charlie đang làm một lộ trình vòng vèo qua những con hẻm nhỏ, hoàn toàn lạ lẫm đối với Charlie.
“Lâu lắm rồi mẹ mới đi đường này, nhưng nó không thay đổi nhiều lắm. A, đây rồi!” Khi bà thốt ra câu này thì hai mẹ con đã đâm ra quảng trường nhỏ trước mặt nhà thờ.
“Ôi!” bà sửng sốt, áp tay lên ngực, như thể cảnh tượng tòa nhà khổng lồ đã làm bà nghẹt thở. “Ba con xưa vẫn hay chơi đàn organ ở đây,” bà thì thầm. “Nhưng mẹ đã không quay trở lại nơi này từ khi... từ khi... ba con ngừng chơi.”
Bà Amy rảo bước nhanh hơn, như không thể chịu đựng thêm được nữa, và tất nhiên, hai mẹ con đều nhận ra mình đang đi ngang qua tiệm sách của cô Ingledew.
“Con biết cái cô sống ở đây,” Charlie dừng lại để dòm qua cửa sổ. “Mình vào nha mẹ?”
“Đóng cửa rồi mà,” mẹ nó nói nhanh. “Con nhìn tấm bảng này.” Và sau đó, khi họ vội vàng đi tiếp, bà nói thêm, “Tối qua ông cậu Paton đã tới đây. Lúc về ông cậu đem theo một túi đầy sách. Gần đây không biết có điều gì mà khiến ông cậu của con thay đổi đột ngột. Chẳng còn giống ông cậu chút nào hết.”
Phải chăng cuối cùng thì ông cậu Paton đã ngẩng đầu lên?
Ngoại Maise đã trông thấy hai mẹ con từ xa, trước khi họ leo lên những bậc tam cấp của căn nhà số 9. Khi Charlie bước qua cửa nhà bếp thì ấm nước đang sôi, và một bữa tiệc thịnh soạn đã được dọn sẵn trên bàn.
“Họ đâu có quyền giữ cháu cách xa chúng ta thêm cả một ngày như vậy,” ngoại Maise kêu lên, ôm chầm lấy Charlie, ghì nó đến nghẹt thở.
“Tại nó vi phạm nội qui,” một tiếng nói phát ra từ chiếc ghế xích đu cạnh lò sưởi. “Nó cần phải học mà hiểu nội qui.” Nội Bone nhăn mặt nhìn Charlie. “Gớm, coi tóc với tai kìa! Mày không đem lược đến trường à?”
“Dạ, có chứ,” Charlie thanh minh, “nhưng giám thị không nói gì về chuyện tóc tai của tụi con. Nội biết con nói tới giám thị là có ý muốn nhắc tới ai chớ!”
“Tất nhiên là Lucretia,” nội Bone cáu kỉnh.
Đây quả là một bất ngờ lớn cho ngoại Maisie và bà Amy, hai người há hốc miệng ra nhìn nội Bone.
“Sao mẹ không cho chúng tôi biết?” Mẹ Charlie la lên.
“Mắc gì ta phải nói,” bà già khụt khịt. Đoạn bà quay trở lại với quyển sách đang đọc dở, như thể không hề có chuyện gì xảy ra.
“Chà,” ngoại Maisie lên tiếng. “Có người lại khệnh khạng thế đấy!”
Nội Bone giả ngơ luôn lời nhận xét này, cũng như làm ngơ luôn bữa trà thân mật mà các thành viên khác trong nhà (trừ ông cậu Paton, dĩ nhiên) sắp ngồi xuống dùng.
Charlie nặn óc nghĩ ra cách để hỏi thăm ông cậu, nhưng nội Bone trông băng giá đến nỗi nó quyết định thôi luôn. Nó không muốn làm nổ thêm cuộc tranh cãi nào nữa, mà chỉ muốn ních đầy các món khoái khẩu rồi mau mau đi gặp Benjamin.
“Đi đâu đó, hả?” Nội Bone hỏi sau bữa trà, khi Charlie đi ra cửa trước.
“Dĩ nhiên là nó đi gặp bạn nó,” ngoại Maisie trả lời thay.
“Chi vậy?” nội Bone chất vấn. “Nó có bổn phận ở nhà với gia đình vào cuối tuần.”
“Đừng ngây ngô như thế chứ, bà Grizelda,” ngoại Maisie sực lại. “Cháu cứ đi đi, Charlie.”
Charlie vọt bắn ra cửa, trước khi nội Bone kịp mở miệng thêm câu nào nữa. Nó chạy băng qua đường, tới nhà số 12, và ở đó, không những nó được gặp Benjamin mà còn có cả Fidelio. Trông hai đứa có vẻ rất hào hứng. Chúng lập tức lôi ngay Charlie vô bếp, nơi những mẩu pizza, khoai tây chiên, chuối và bánh quy thừa còn vung vãi trên bàn. Con Hạt Đậu đang say mê thưởng thức những miếng đồ ăn rới xuống sàn, nhưng ngay khi Charlie đi vô, nó liền nhặng xị cả lên: nhảy chồm chồm, thè cái lưỡi cực kỳ nhớp nháp liếm lấy liếm để lên mặt Charlie.
Charlie cố dứt ra khỏi con Hạt Đậu, trong khi Benjamin bắt đầu thuật lại những gì đã xảy ra. Có vẻ như tụi nó đã phát hiện được một điều gì đó vô cùng hệ trọng.
“Chính Fidelio,” Benjamin nói. “Bồ biết không, cái giọng nói trong con chó máy bồ tặng mình đó... ờ... anh Fidelio bảo nếu tụi mình cho cái băng chạy tới thì có lẽ sẽ có thêm gì đó nữa. Và đúng là có thêm thật.”
“Vậy hóa ra sáng nay hai người muốn diễn tả điều đó cho mình hả?” Charlie gật gù. Trò hề lạ lùng của lũ bạn nó bỗng nhiên đã có ý nghĩa. “Hai người làm điệu bộ như kéo cái đuôi chó vậy...”
“Thế lúc ấy em không hiểu hả?” Fidelio cười toe toét. “Ngồi xuống đi, Charlie, và nghe câu chuyện giật gân đây!”
Charlie nhận thấy lũ bạn đã tìm cách kéo được cái thùng của tiến sĩ Tolly ra khỏi tầng hầm rồi. Nó kéo ghế ra và ngồi vô bàn. Đứng giữa mặt bàn là con chó kim loại, bao quanh là bìa cứng và vụn bánh.
“Nghe đây,” Fidelio dõng dạc. Nó giật đuôi con chó, và ngay khi giọng nói quen thuộc của tiến sĩ Tolly bắt đầu đưa ra lời hướng dẫn, Fidelio nhấn tai trái con chó cho cuộn băng chạy tới.
“Rồi,” nó cao giọng. “Tới rồi đó.”
Tiến sĩ Tolly nói trở lại, lần này giọng ông nghe khác hẳn, khẩn thiết và sầu thảm hơn. Charlie xích ghế lại.
‘Julia thương mến,’ giọng nói bắt đầu, ‘nếu nghe được những lời này thì chị sẽ khám phá ra bí mật về đứa con yêu dấu của tôi; đứa bé trước đây là Emma Tolly, nhưng giờ đây nó đã mang một cái tên khác. Tôi hi vọng chị đã tìm ra một nơi an toàn để giấu cái thùng đề Mười Hai Tiếng Chuông của Tolly. Tôi không thể gửi chìa khóa hay lời hướng dẫn cách mở nó cho chị được, vì tôi không tin tưởng ai, Julia à. Họ nghe trộm ngoài cửa phòng tôi, ăn cắp thư từ của tôi, và đến lúc chị nghe được lời nhắn này thì chúng đã đánh cắp cuộc đời tôi. Tôi biết rõ lắm. Tôi đã yếu sức lắm rồi. Tôi không thể ra khỏi giường. Những kẻ thù của tôi đã đầu độc tôi, Julia, và đây chính là hình phạt cho những gì tôi đã làm với con mình.
Và thế là, giờ đây, tôi sẽ kể cho chị biết sự việc đó đã xảy ra như thế nào, tôi đã rơi vào tình thế trớ trêu này sao. Như chị biết đấy, tôi đã quyết định trao bé Emma cho người khác. Chính lòng tham đã thúc giục tôi. Thứ chúng trao cho tôi để lấy con của gái tôi là một thách thức gây hứng thú nhất trong đời tôi. Chúng đưa cho tôi một bản sao rất hoàn hảo tổ tiên của tôi, hiệp sĩ từ Toledo với thanh gươm sắc bén nhất trần đời. Tôi sẽ phải biến bản sao đó thành người thật – tôi mới ngạo mạn làm sao khi tin rằng mình có thể làm được điều đó. Tôi đã làm việc cật lực trong 5 năm. Không thành công. Tôi chỉ là một nhà khoa học, chứ không phải là một phù thủy. Khi Emma lên 7 tuổi, tôi yêu cầu họ trả con lại. Họ từ chối, với lí do là tôi đã không hoàn thành nhiệm vụ của mình.’
Đúng lúc này, Benjamin bỗng hắt xì một cái, cắt ngang thứ bùa mê mà giọng nói đầy thuyết phục của tiến sĩ Tolly đang truyền qua lũ trẻ.
“Chà chà, thú vị thật,” Charlie tấm tắc. “Nhưng cũng chẳng giúp cho tụi mình biết được gì nhiều.”
“Chi tiết đầu độc thú vị đấy chứ,” Benjamin nói.
“Nghe đi,” Fidelio yêu cầu chúng. Nó tạm dừng cuộn băng lại. “Phần kế tiếp là phần hay nhất. Tất cả mọi việc đều diễn ra ở đó.”
Benjamin và Charlie im bặt, đầy ý thức trách nhiệm, trong khi Fidelio bật lại cuộn băng. Một lần nữa, giọng nói trầm sâu của tiến sĩ Tolly lại vang lên từ con chó máy.
‘Julia, chúng hứa là tôi sẽ được gặp và thăm con. Tôi nghĩ đó sẽ là một cuộc sống tốt cho Emma bé nhỏ, được bảo bọc trong một gia đình chan chứa tình yêu thương – có cha mẹ, có anh – thay vì phải sống với tôi, một gã hay gắt gỏng, đãng trí. Họ nói họ sẽ cho con tôi biết sự thật nó là ai, để một ngày kia, con bé có thể chọn trở về với tôi hoặc đến sống với chị, Julia à. Đó là hi vọng của tôi. Đó là trước khi tôi biết những gì Manfred có thể làm...’
Charlie ngó Fidelio, đang trợn tròn mắt. Benjamin thì thầm: “Phải đó là..?”
“Suỵt!” Fidelio ra hiệu.
‘Tôi nhớ rõ ngày hôm ấy,’ tiến sĩ Tolly tiếp. ‘Chị còn nhớ chứ, trước tiên tôi đến tiệm sách của chị, và mặc cho Emma một chiếc váy trắng và thắt ruy băng lên tóc cho con bé. Nhưng chị không đi tới quảng trường trước nhà thờ cùng với cha con tôi. Giá mà lúc ấy chị cũng đến đó.
Ở đó có bốn người – Bloor, vợ và con trai ông ta, và một lão già. Thằng bé lúc ấy khoảng 8 tuổi. Chúng đặt cái thùng dưới chân tôi và, đúng là trong thùng có một bức tượng; sau đó, tôi nâng con gái bé bỏng của mình lên và lão già chìa tay ra.
Đúng giây phút đó thì sự việc xảy ra, Julia ạ. Đó là khi tất cả mọi thức bắt đầu đi chệch lối. Khi chiếc đồng hồ to trên đầu chúng tôi bắt đầu điểm giờ, thì một người đàn ông từ trong nhà thờ chạy bổ ra. Tôi nhận ra anh ta ngay lập tức. Đó là người đánh đàn organ trẻ tuổi cho nhà thờ. Trong khi ca đoàn vẫn đang hát, thì anh ta chạy về phía chúng tôi. Anh ta giơ tay lên và la lớn. “Ngừng lại! Các người không được làm thế!”
Khi anh ta xông tới chặn trước mặt tôi, thì lão già liền đấm một đấm vô mặt anh ta. Người nhạc công trẻ đánh trả lại và lão già ngã xuống, đập đầu xuống nền đá. Lão ta thét lên đau đớn. Liền đó, tôi nhận thấy Manfred nhìn trừng trừng người đàn ông kia, đôi mắt nó trông như hai hòn than đen ngòm. Anh nhạc công lập tức đưa tay ôm mặt và quỵ xuống.
Lúc ấy Emma khóc thét lên vì khiếp sợ, nhưng Manfred quay đôi mắt khủng khiếp ấy về phía tôi, và tôi thấy mình đặt đứa con đang gào khóc của mình vô tay nó. Khi đồng hồ nhà thờ gõ mười hai giờ, nó nhìn con bé và con bé nín khóc ngay lập tức. Con bé dường như sợ đến chết trân.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...