39 Manh Mối ( Phần 1: Mê cung xương )

CHƯƠNG 16
Amy căm ghét đám đông, nhưng cái ý nghĩ phải lao vào giữa bảy triệu người chết lại không khiến nó bận tâm/.
Nellie, Dan và nó chạy thật nhanh xuống một cầu thang bằng kim loại. Cả ba thấy mình đang ở giữa một hành lang bằng đá vôi với những chiếc ống kim loại đang chạy trên đầu và ánh sáng đèn điện mờ mịt. Không khí ấm áp ở đây có mùi nấm mốc và đá bị ẩm.
“Chỉ có một lối ra nhé hai đứa” Nellie nói bằng giọng căng thẳng “Nếu như cả đám bị bắt ở đây thì…”
“Đường hầm sẽ sớm chẻ nhánh thôi” Amy đáp, rang giữ giọng bình tĩnh hơn là những gì nó đang cảm thấy bên trong.
Các bức tường đá vằn vện tranh graffiti. Một số trông xưa cũ, số khác nhìn còn mới. Một dòng văn tự được khắc vào tấm đá cẩm thạch ngay trên đầu chúng.
“Hỡi con người, hãy dừng chân” Nellie dịch lại “Đây là vương quốc của tử thần”
“Vui tính nhỉ” Dan lẩm bẩm
Họ bước tiếp. Nền đất dưới chân Amy chỉ là một lớp sỏi nhầy nhụa. Amy còn mải nghĩ đến Alistair Oh. Hẳn lão ta biết điều gì đó về cha mẹ hai đứa, hay lão chỉ muốn thao túng chúng mà thôi? Nó cố gạt ý nghĩ ấy ra khỏi đầu.
“Xương xẩu ở đâu nhỉ?” Dan thắc mắc. Rồi cả ba đến một góc dẫn vào một căn phòng lớn. Dan thốt lên “Ôi”
Đây là nơi rợn người nhất mà Amy từng thấy. Sát tường, xương người được chất đống từ nền đất lên ngang đầu Amy như gỗ để chụm lửa. Những gì còn lại có màu vàng, màu nâu- hầu hết là xương đùi, nhưng các hộp sọ cứ nhìn ra khắp các phía như những miếng vá của một chiếc chăn bong. Một hàng sọ người xếp dài trên mỗi chồng xương.
Amy bước vào bên trong trong sự im lặng đến gai người. Căn phòng kế tiếp cũng hệt như căn đầu tiên- những bức tường nối nhau đầy những xác chết mốc meo. Luồng ánh sáng đèn điện u u hắt thành bóng phủ lên đám xương xẩu, khiến những hốc mắt trống hoác càng thêm rùng rợn.
“Gớm quá đi mất” Nellie trấn tĩnh “Có đến, xem nào, cả ngàn xác chết”
“HÀng triệu ấy chứ” Amy chỉnh lại “Đây mới chỉ là một phần nhỏ thôi”
“Người ta quật bằng hết những người này lên sao?” Dan hỏi Amy “Ai mà làm công việc đó chứ?”
Amy không biết, nhưng nó thấy hết sức ngạc nhiên trước các công nhân ngày trước tạo ra hình bằng xương sọ đặt trên những đống xương đùi như thế này- các hình dáng ngang, sọc, chấm gạch. Nó có thể xem là đẹp đấy chứ, theo một cách quái gở và kinh khiếp.
Ở căn phòng thứ ba, cả ba thấy một bàn thờ bằng đá có nến chưa thắp.
“Chúng ta phải tìm cho ra khu vực cổ xưa nhất” Amy quả quyết “Mấy bộ xương ở đây hãy còn quá mới. Hãy xem tấm bảng đồng kìa. Nó từ năm 1804”
Amy dẫn đường, các hốc mắt trống trơn trông như đang quan sát họ đi qua.
“Mấy cái này ngon lành ghê” Dan khẳng định “Chắc em sẽ…”
“Không đâu Dan” Amy ngăn nó “ Em không được sưu tập xương người đâu”
“Èo”
Nellie lầm bầm gì đó nghe như kinh cầu nguyện bằng tiếng Tây Ban Nha. “Làm sao mà Benjamin Flanklin lại muốn đi xuống đây chứ”
“Ông là một nhà khoa học” Amy tiếp tục bước đi, mắt chăm chú đọc những mốc ngày tháng khắc trên các bảng đồng “Ông ấy rất thích các công việc phục vụ lợi ích cộng đồng. Chắc hẳn nơi này khiến ông hứng thú”
“Đến hàng triệu người chết” Nellie nói “Thật hứng thú làm sao”
Cả bọn rẽ xuống một hành lang hẹp và bị chặn lại bởi một cánh cổng kim loại. Amy lay các chấn song. Cánh cửa mở kẽo kẹt như thể đã hàng trăm năm nay không ai dùng đến nó.
“Hai đứa có chắc à chúng ta sẽ xuống dưới đó chứ?” Nellie hỏi lại
Amy gật đầu. Các mốc ngày tháng càng lúc càng xa hơn. Mặt khác, không còn đường ống kim loại nào bắt trên đầu phía trước mặt, đồng nghĩa với việc sẽ chẳng còn ánh sáng điện nữa.
“Có ai có đèn pin không?’ Nó hỏi
“Có, trong xâu chìa khóa này” Nellie đáp
Nellie chìa chum chìa khóa cho Amy. Chỉ là một chiếc đèn bấm nút nhỏ. Không sáng, nhưng có còn hơn không. Cả ba tiếp tục bước đi. Sau chừng năm mươi thước, họ xuất hiện trong một căn phòng nhỏ có duy nhất một lối ra khác.
Amy soi vào một bảng đồng cũ đặt giữa các bộ xương. “1785! Đây hẳn là những bộ xương đầu tiên người ta mang xuống”
Bức tường họ nhìn thấy trông rất cũ kỹ. Các bộ xương ngả màu nâu, mủn vụn, vài bộ đã rơi rải rác trên nền đất. Những chiếc đầu lâu ở hàng trên cùng đã bị cán vỡ, nhưng những chiếc dính trên tường trông còn khá nguyên vẹn. Tất cả được xếp thành một hình vuông- chẳng có gì đặc sắc.
“Hãy tìm xung quanh” Amy nói “Nó phải ở đây thôi”

Dan thò tay vào những lỗ hổng trên bức tường xương. Nellie kiểm tra hàng trên. Còn Amy thì lấy đèn pin rọi vào các hốc mắt, nhưng cũng không thấy gì.
“Vô vọng thôi” cuối cùng Amy lên tiếng “Nếu ở đây có gì đó thì một nhóm khác chắc chắn đã tìm ra mất rồi”
Dan gãi gãi đầu. Rồi gãi tới đầu của một hộp sọ “Tại sao chúng lại được đánh số nhỉ?”
Amy không có bụng dạ nào ấy trò chơi của nó “Đánh số gì?”
“Ngay trên trán đây” Dan gõ nhẹ vào một hộp sọ “Ông này được đánh số ba. Bộ mấy người này trong đội bóng hay sao ta?”
Amy cúi xuống gần hơn. Dan nói đúng. Chữ số III rất mờ, nhưng nó được khắc hẳn vào trán của đầu lâu, có vẻ như ai đó đã dùng dao khắc số La Mã vào đó.
Amy xem tiếp chiếc sọ ngay dưới. XIX. Một hình vuông. Các hộp sọ có chữ số “Hãy xem hết nào. Nhanh lên”
Không mất nhiều thời gian cho việc này. Có tất cả mười sáu hộp sọ xếp lại thành một đống xương, bốn hàng bốn cột. Ba hộp sọ không đánh số, còn lại đều đánh số.
Sống lưng của Amy rợn nhói lên “Tọa độ trong chiếc hộp. Chiếc hộp phép thuật”
“Cái gì chứ?” Dan thắc mắc “Phép thuật gì chứ?”
“Dan, em có thể ghi nhớ được hết mấy chữ số và vị trí của nó không?”
“Đã xong”
“Chúng ta phải ra khỏi đây ngay và tìm một tấm bản đồ. Đây chính là đầu mối- tức là, một đầu mối cho đầu mối thật, cho dù đó là cái gì mà Flanklin đang giấu đi chăng nữa”
“Chờ đã” Nellie hỏi lại “Flanklin đã khắc số vào hộp sọ á? Tại sao như vậy?”
“Đó là chiếc hộp phép thuật” Amy giải thích “Flanklin thường chơi với các con số khi ông muốn giải khuây. Tương tự  như lúc ông có mặt ở Nghị viện Philadenphia và chán không muốn nghe những bài phát biểu tẻ nhạt, ông tạo ra những chiếc hộp phép thuật, các bài toán số để tự mình giải. Flanklin sẽ tự điền số vào các chỗ trống. Tổng của chúng phải bằng nhau, cả hàng ngang lẫn hàng dọc”
Nellie chau mày “Em đang nói với chị Benjamin Flanklin chính là người phát minh ra ô số Sudoku sao?”
“Phải, theo một cách nào đó là như vậy. Và các thứ này là…”
“Là các tọa độ” Dan nói ngay “Các tổng còn thiếu sẽ cho ra tọa độ của đầu mối tiếp theo”
Tiếng vỗ tay vang vọng trong căn phòng “Giỏi lắm”
Amy ngoảnh lại. Ngáng ngay lối vào là Ian và Natalie Kabra
 “Tao đã nói là tụi nó có thể làm được mà” Ian nói với em mình.
“Ồ, em đoán thế” Natalie Kabra thừa nhận. Amy ghét một nỗi là thậm chí ngay ở giữa căn phòng đầy xương xẩu dưới lòng đất mà Natalie Kabra vẫn cố chưng diện. Con nhỏ đang mặc bộ đồ bó sát cơ thể bằng nhung đen tuyền, làm nó trông như già đi đến tuổi hai ba. Tóc nó buông xuống ngang vai. Thứ duy nhất không khớp với toàn bộ trang phục nó đang mặc là khẩu súng bắn phi tiêu bằng bạc bé xíu đang cầm trong tay “Có lẽ, dù Irina khiến chúng ta thất vọng thì mọi chuyện cũng chưa đến nỗi quá tệ”
“Chính tụi bây” Dan thét lên “Tụi bây đã thuyết phục ả Irina gài bẫy bọn tao ở đảo St-Louis. Suýt chút nữa tụi bây làm bọn tao bị chôn sống trong xi măng”
“Tiếc là chuyện đó không thành” Natalie Kabra nói “Tụi bây đáng lẽ ra đã thành một tấm thảm chào đón khách tham quan lăng mộ đẹp đẽ rồi”
“Nhưng… nhưng tại sao lại như vây?” Amy lắp bắp
Ian cười “Để loại tụi bây khỏi cuộc đua, dĩ nhiên rồi. Và để tụi này có thêm tí thời gian tìm ra chỗ này. Cần chắc chắn đây chẳng phải là một tiểu xảo đánh lạc hướng nào khác của bà họ hàng quý hóa Irina chứ. Lẽ rat a cũng nên chú ý đến chiếc hộp phép thuật. Cám ơn cưng, Amy. Giờ thì cảm phiền dịch sang một bên để tụi này chép lại các con số và biến ra khỏi đây”
Amy hắt ra một hơi run rẩy “Không”
Ian cười to “Trông cô nàng xinh xắn chưa kìa, Natalie? Làm cứ như cô nàng vẫn còn sự lựa chọn vậy”
“Ờ” Natalie Kabra nhăn mũi lại “Xinh lắm”
Amy thẹn đỏ mặt. nhà Kabra lúc nào cũng khiến nó thấy mình thật dị hợm và ngớ ngẩn, nhưng nó không thể để cho bọn chúng lấy được đầu mối. Amy vớ một chiếc xương cẳng chân “Tiến tới thêm một bước nữa đi… đây sẽ… sẽ tang vào sọ các người. Các người sẽ không bao giờ lấy được các con số đâu”
Xem ra đây chẳng phải là một lời đe dọa đáng sợ gì cho cam, thậm chí với chính Amy, nhưng Ian tái mặt đi”Nào, đừng có mà ngu ngốc, Amy. Ta biết cô em căng thẳng như thế nào, nhưng bọn ta sẽ không làm cô em đau đâu”
“Chính xác” Natalie Kabra hùa theo. Nó nhắm khẩu súng phi tiêu vào mặt Amy “Ta nghĩ chất độc số sáu sẽ phù hợp. Không gì nghiêm trọng hết. Chỉ là một giấc ngủ sâu, rất sâu. Chắc chắn sẽ có ai đó tìm thấy bọn bây ở dưới này… một ngày nào đó”
Một bóng đen chợt hiện ra đằng sau hai đứa trẻ nhà Kabra. Thình lình, Alistair Oh lao nhanh vào phòng và hạ Natalie Kabra gục xuống đất. Khẩu súng phi tiêu của nó văng ra xa và Ian nhặt nó lên.

“Chạy mau” Alistair Oh hét lên
Amy không cự cãi gì nữa. Nó, Nellie và Dan chạy thật nhanh đến lối ra khác, vào trong bóng tối- dấn sâu hơn xuống Hầm mộ.
Cả ba chạy có lẽ đã nhiều giờ liền, không có gì dẫn đường ngoại trừ chiếc đèn bé xíu. Họ đi xuống thêm một hành lang nữa và bị một khối đất đá chặn lại. Thế là cả ba quay đầu và lần theo một đường hầm khác cho đến khi chìm hẳn vào một thứ nước vàng đục ngầu. Ngay tức thì, Amy chẳng còn biết cả ba đang hướng về đâu nữa.
“Alistair Oh nói ở dưới đây có cảnh sát” Amy lẩm bẩm “Ước gì họ tìm thấy chúng ta”
Nhưng chúng không thấy ai cả. Ánh sáng đèn pin yếu dần và bắt đầu mờ đi.
“Không được” Amy nói “Không, không, không được”
Họ lao tiếp về phía trước. Năm mươi, năm mươi lăm thước, rồi ánh sáng tắt ngóm.
Amy tìm thấy tay Dan và nắm thật chặt.
“Sẽ không sao đâu hai nhóc” Nellie trấn an, nhưng chính giọng của cô nàng cũng đang run rẩy “Chúng ta sẽ không mắc kẹt mãi ở đây đâu”
Amy không thấy có lí do gì để điều đó không xảy ra. Hầm mộ kéo dài hàng nhiều dặm và chưa bao giờ được vẽ lại một cách kỹ càng. Không có lí do gì để một ai đó xuống nơi này tìm kiếm cả bọn hết.
“Chúng ta có thể hét lên kêu cứu” Dan nói
“Không ăn thua gì đâu” Amy trả lời nó bằng giọng ủ rũ “Em rất tiếc, cả hai ạ. Em không hề muốn mọi việc kết thúc theo cách này.”
“Vẫn chưa kết thúc đâu” Dan nói “CHúng ta vẫn có thể lần theo một bức tường cho đến khi tìm thấy lối ra. Chúng ta có thể…”
“Suỵt” Amy nói
“Em vừa nói là…”
“Dan, nghiêm túc đó. Im nào. Chị nghĩ chị vừa nghe thấy cái gì đó”
Đường hầm yên ắng chỉ có lác đác tiếng nước rỏ từng giọt. Đoạn Amy lại nghe thấy tiếng động kia- tiếng rung chuyển yếu ớt của một nơi nào đó ngay trước mặt họ.
“Một chiếc tàu điện chăng?” Nellie hỏi
Amy phấn chấn ngay “Chúng ta hẳn ở gần một nhà ga Metro rồi. Cố lên nào”
Amy hào hứng bước nhanh về phía trước, cả hai tay dang rộng. Chợt con bé rùng mình khi chạm phải một bức tường bằng xương khác, nhưng rồi Amy tiếp tục đi theo hành lang cho đến khi nó uốn sang phải. Dần dần, tiếng rền nghe lớn hơn. Amy xoay sang bên trái. Tay nó chạm phải cái gì đó bằng kim loại.
“Là một cánh cửa” nó thét lên “Dan lại đây, hình như có một cơ chế khóa nào đó”
“Ở đâu nào?”
Amy tìm thấy cậu em trong bóng tối và lần bàn tay nó đến chiếc khóa. Chỉ vài giây, chiếc cửa cống đã kẽo kẹt mở ra và cả bọn bị ánh sáng đèn điện làm cho lóa mắt.
Phải đến một lúc sau Amy mới hình dung ra nó đang chứng kiến điều gì. Cửa cống thực ra giống một cái cửa sổ hơn là cửa cái- một cái lỗ hình vuông cách mặt đất chừng một mét rưỡi, vừa đủ để trèo qua nếu muốn leo lên phía trên. Họ đang ở ngang tầm mắt với mặt bên của một đường ray nào đó- ray kim loại trên tà vẹt gỗ. Và có cái gì đó màu nâu đầy lông lá đang lọ dọ trên nền đường rải sỏi.
Amy giật bắn người “Chuột”
Con vật gặm nhấm nhỏ bé, rõ ràng chả có gì ấn tượng hết, đoạn trườn đi nơi khác
“Đó là cái hố đường ray” Dan nói “Chúng ta có thể trèo ra và…”
Ánh sáng đã sáng hơn. Cả đường hầm rung chuyển. Amy lui lại và dỏng tai lên lắng nghe tiếng động- nghe như một bầy khủng long đang đến. Con tàu băng qua thật nhanh như một dải bánh xe kim loại mờ mờ ảo ảo. Nó hút sạch hết không khí trong đường hầm, lùa cả áo quần lẫn tóc của con bé ra chỗ nắp cửa cống. Rồi, bất thình lình, nó cũng mất hút.
Khi đã chắc giọng của mình có thể nghe thấy được trở lại, Amy bắt đầu nói “Chúng ta không thể ra bằng lối này được. Sẽ chết mất”
“Trông kìa” Dan nói “Có một thang thoát hiểm cách mặt đất chừng một thước rưỡi. Chúng ta cùng trèo lên đường ray, chạy đến thang, và trèo vào ke ga. Dễ ợt”
“Không dễ đâu. Nếu như có một chiếc tàu khác đến thì sao?”
“Chúng ta có thể canh thời gian mà” Nellie gợi ý “Chị có đồng hồ trên chiếc iPod”

Nellie lôi máy nghe nhạc từ trong túi ra nhưng cô cũng chẳng biết khi nào con tàu kế tiếp sẽ ồn ã phóng qua.
Viền mắt lấp lánh của Nellie khiến khuôn mặt cô nàng nhìn giống như ma trong ánh sáng nhập nhoạng. “Chưa đầy năm phút. Ray này chắc chắn dành cho tàu tốc hành. Chúng ta phải khẩn trương thôi”
“Đúng thế” Dan nói, và ngay lập tức trèo ra khỏi miệng cống
“Dan” Amy thét lớn
Nó ngoảnh lại trong lúc trườn trên đường ray “Đi thôi”
Hết sức kinh ngạc, Amy lại để Nellie đẩy mình lên. Với Dan giúp, nó cũng trèo lên được “Giờ thì phụ em kéo chị Nellie lên nào” Dan nói “Nhưng coi chừng đường ray thứ ba”
Amy sợ cứng người. Chỉ cách chỗ đó hơn nửa thước là ray điện màu đen để tàu chạy. Nó đủ biết về hệ thống tàu điện ngầm để hiểu rằng chỉ một cú chạm vào đó thôi cũng tệ hơn nhiều so với cả ngàn cục pin Flanklin gộp lại. Amy giúp Nellie trèo ra khỏi cửa cống, nhưng phải ép thật chặt mới qua được. Chúng mất nhiều thời gian. Đường ray đã rít lên và khua canh cách phía bên dưới.
“Chị ổn rồi” Nellie bảo, tay phủi bụi bẩn dính vào quần áo “Hãy đến chỗ cái thang nào”
Dan bước đi theo, nhưng vừa đứng bật dậy nó đã khựng ngay lại như bị mắc kẹt bởi một cái gì đó.
“Sao vậy Dan?” Amy hỏi nó
“Ba lô của em” nó trả lời “Nó bị vướng vào…”
Dan kéo thật mạnh nhưng không thể. Không rõ vì sao một sợi dây ba lô bị vướng vào ray kim loại, và đoạn ray này đã đổi hướng, kẹp chặt chiếc ba lô.
“Hãy bỏ nó đi” Amy gào lên
Nellie đã đến cầu thang, đang khản cổ gọi cả hai hãy nhanh lên. Hành khách trên sân ga cũng bắt đầu chú ý tới chúng. Bọn họ cũng đang thét lên cảnh báo, bằng tiếng Pháp.
“Mau” Nellie hét lên
Amy có thể cảm thấy tiếng rung khe khẽ của đường ray dưới chân.
“Dan!” con bé năn nỉ “Không quan trọng đâu em”
“Em gỡ được mà! Chỉ một giây nữa thôi”
“Dan, đừng, chỉ là chiếc ba lô thôi mà”
“Nó không chịu mở ra”
Phía xa cuối đường hầm đã sáng lên. Nellie đang đứng ở ke ga ngay bên trên chúng, vươn tay xuống dưới. Rất nhiều hành khách khác cũng đang làm như thế, khẩn khoản yêu cầu chúng nắm lấy tay mình.
“Amy” Nellie hét lên “Em lên trước đi”
Nó không muốn làm thế, nhưng chắc là nếu nó lên trước, nhóc Dan sẽ hiểu mình phải làm gì. Amy chộp lấy tay Nellie và Nellie nhấc bổng nó qua chỗ hố ray. Ngay lập tức, nó xoay trở lại và vươn tay ra với lấy Dan.
“Dan, đi mà em, lên nào”
Ánh sáng ở đầu tàu đã chớp lên. Gió ùa vào đường hầm. Mặt đất rung chuyển.
Dan cố kéo chiếc ba lô thêm lần nữa, nhưng nó vẫn không nhúc nhích. Dan trông thấy con tàu, và Amy thấy nó đang khóc. Nó cũng không biết vì sao như thế.
“Dan, nắm lấy tay chị”
Amy nhoài người ra hết sức. Con tàu đã trờ đến gần chúng hơn. Trong tiếng khóc tức tưởi, Dan nắm lấy tay Amy, và với một sức lực đến chính Amy cũng không ngờ tới, con bé kéo thằng em bật ra khỏi hố ray, mạnh đến độ cả hai đều té nhào.
Con tàu vút nhanh qua. Khi tiếng ồn đã lắng xuống, hành khách trên ga bắt đầu xôn xao- mắng cả bọn bằng tiếng Pháp trong lúc Nellie phải cố gắng giải thích cho họ hiểu và xin lỗi họ. Amy không quan tâm bọn họ đang nói gì. Nó ôm em mình, thằng bé đang khóc nức nở trong lòng nó, đây là lần khóc dữ dội nhất kể từ lúc nó còn bé cho đến nay.
Con bé nhìn qua mép hố, chiếc ba lô không còn ở đó nữa, bị con tàu kéo tút vào đường hầm. Cả bọn ngồi lại đó một lúc lâu, Dan run rẩy và lau nước mắt. Cuối cùng, hành khách đã hết hứng thú với bọn chúng. Họ tản đi hoặc bước vào các con tàu khác và biến mất. Không có cảnh sát xuất hiện. Chẳng mấy chốc chỉ còn lại Nellie, Amy và Dan ngồi ở một góc ke ga như một gia đình vô gia cư.
“Dan em” Amy dịu dàng “Trong đó có gì? Em có thứ gì bên trong ba lô vậy?”
Nó sụt sịt, tay chùi mũi “Không có gì”
Đó là lời nói dối dở nhất mà Amy từng nghe. Thông thường, chỉ cần dòm vào mặt nó Amy đã biết cậu bé nghĩ gì, nhưng nó lại đang che giấu không cho chị nó biết những ý nghĩ trong đầu. Amy chỉ có thể nói được là cu cậu đang rất sầu não.
“Quên nó đi” Dan nói “Chúng ta không có thời gian đâu”
“Em chắc chứ…”
“Em nói là quên đi! Chúng ta cần phải tìm ra chiếc hộp số trước bọn Kabra, phải không nào”
Amy không thích như thế, nhưng thằng bé nói đúng. Vả lại, đang có gì mach bảo với con bé rằng nếu ở đây lâu thêm một chút, thì cảnh sát sẽ có mặt và bắt đầu hỏi này nọ. Nó nhìn lại hố ray thêm một lần nữa, nơi Dan đã suýt mất mạng và chiếc cửa hầm tối om dẫn vào hầm mộ, nỗi sợ hãi vẫn còn bao bọc quanh người nó, nhưng cả bọn đã vượt qua quá nhiều thứ, không thể dừng lại được.
“Vậy thì đi nào” nó nói “Chúng ta cần tìm ra đầu mối”
Bên ngoài, trời bắt đầu đổ mưa.

Khi cả bọn vào một nhà hàng, Dan dường như đã trở lại bình thường- hay chí ít giữa họ đã có một thỏa thuận không nói thành lời là sẽ hành động như thể mọi thứ vẫn đang bình thường. Cả ba ngồi xuống bên dưới mái hiên để hong khô trong lúc Nellie gọi món. Amy không nghĩ mình có thể ăn uống gì nổi, nhưng nó đói hơn là mình tưởng. Đã năm giờ chiều, cả ba đã ở trong hầm mộ một thời gian dài.
Nó lại thấy rùng mình khi nghĩ đến Ian và Natalie với khẩu súng bắn phi tiêu. Nó mong Alistair Oh vẫn không sao. Nó không tin tưởng lão, nhưng không thể chối cãi là lão đã giúp chúng trong hầm mộ. Nó đã có những ý nghĩ rất khủng khiếp khi hình dung ra cảnh lão già nằm cô độc, bất tỉnh ngay trong mê cung.
Lúc cả bọn đang ăn sandwich phô mai brie và nấm, Dan vẽ những chiếc đầu lâu và số La Mã ra khăn ăn.
“12, 5, 14, đó là các con số còn thiếu”
Amy không nghi ngờ gì về khả năng tính toán của Dan. Chẳng bao giờ thằng nhỏ sai trong các bài toán.
“Có thể đó là một địa chỉ và một quận ở đây” nó lên tiếng
Nellie tháo chiếc iPod “Chẳng lẽ địa chỉ không thay đổi sau hai trăm năm sao?”
Amy cảm thấy bị hẫng. Có thể Nellie nói đúng. Hồi Flanklin ở đây, Paris vẫn chưa có hệ thống phố phường. Còn địa chỉ chắc chắn phải thay đổi rồi- mà như vậy thì đầu mối của Flanklin không còn dùng được nữa, làm sao Grace lại cho chúng tham gia vào cuộc truy tìm không thể nào kết thúc kia chứ?
Sao lại không? Có một giọng nói bực dọc cất lên trong đầu con bé. Grace chẳng buồn quan tâm đến việc cho từng người biết về cuộc tranh tài. Nếu Dan chết chỗ hố ray kia, thì đó cũng chẳng phải là lỗi của Grace.
Không, Amy quả quyết. Không phải vậy. Grace phải có lý của bà. Những con số này phải về một cái gì đó khác. Amy nghĩ đến cách duy nhất để tìm ra đáp án- là cách nó vẫn hay làm mỗi khi gặp phải vấn đề không thể giải quyết “Chúng ta cần tìm một thư viện”
Nellie nói với anh chàng bồi bàn bằng tiếng Pháp và anh chàng dường như cũng hiểu cả bọn muốn gì.
“Pas de probleme” (không thành vấn đề - ND) anh chàng nói
Anh bồi bàn vẽ một bản đồ trên tờ giấy ăn mới và ghi tên một nhà ga. Ecole Miliaire.
“Chúng ta phải khẩn trương lên” Nellie nói “Anh này nói thư viện đóng cửa lúc sáu giờ”
Nửa giờ sau, ẩm ướt và vẫn còn nồng nặc mùi như chính hầm mộ, cả bọn đặt chân đến thư viện Mỹ ở Paris.
“Tuyệt vời” Amy lên tiếng. Tòa nhà có thanh chắn kim loại màu đen chỗ cửa ra vào, nhưng chúng vẫn còn đang mở. Vào trong, Amy đã thấy hàng chồng sách và vô số chỗ đọc ngồi rất ư thoải mái.
“làm sao mà mấy người này chịu giúp chúng ta chứ?” Dan thắc mắc “Ý em là, chúng ta đâu có thẻ thư viện hay thứ gì khác nữa?”
Nhưng Amy đã trèo tót lên cầu thang. Lần đầu tiên sau nhiều ngày trời, nó cảm thấy hoàn toàn tự tin trở lại. Đây chính là thế giới của nó. Nó biết mình phải làm gì.
Những thủ thư đến giúp chúng như binh lính nghe thấy tiếng kèn xung trận. Amy bảo họ rằng mình đang nghiên cứu về Benjamin Flanklin và chỉ vài phút sau, Amy, Dan cùng Nellie đã ngồi trên một chiếc bàn trong phòng họp, tận tay xem các bản sao chép tài liệu của Flanklin – một số rất hiếm, những thủ thư nói, là các bản sao duy nhất có mặt ở Paris
“Đúng thế, đây là một danh sách hàng chạp phô quý hiếm” Dan lẩm bẩm “ Úi chà chà”
Nó định gạt danh sách kia sang một bên thì Amy chộp cổ tay nó lại.
“Dan, em chẳng bao giờ biết cái gì là quan trọng hết. Vào thời đó, không có nhiều cửa hàng đâu. Nếu muốn mua gì em phải đặt ở một thương buôn và chờ người ta chở hàng đến. Flanklin mua gì nào?”
Dan thở dài. “Làm ơn gởi đến đây các thứ sau: 3- Khảo luận cách làm rượu táo của Cave; 2- Nelson bàn về Chính quyền của trẻ em, quyển 8 của Dodsley; 1 lượng- Iron Solute; Thư từ của một sĩ quan Nga…”
“Khoan đã” Amy nói “Iron Solute, chị đã nghe thứ này ở đâu rồi nhỉ?”
“Ở trong danh sách còn lại” Dan nói ngay “Một trong những lá thư ta thấy ở Philadenphia”
Amy chau mày “Nhưng Iron Solute không phải là một quyển sách. Cả danh sách đều là sách, trừ thứ đó”
“Vậy Iron Solute là gì nào?” Dan thắc mắc
“Ồ, các nhóc, chị biết nè” Nellie nói xen vào. Cô nàng úp hai tay vào mặt và nhắm nghiền mắt như đang cố nhớ lại đáp án bài kiểm tra “Đó là một dung dịch hóa chất, đúng không nhỉ? Bọn họ dùng nó vào thuật chế tác kim loại, in ấn và hàng tá các việc khác nhau”
Amy nhìn Nellie chằm chằm “làm sao chị biết?”
“Nè, học kỳ vừa rồi chị học Hóa, chị nhớ vì thầy giáo có nhắc đến nó ở chỗ, kiểu như người ta tạo ra thiết bị nấu nướng cao cấp như thế nào. Có thể Flanklin đã dùng Iron Solute ực in của mình khi ông còn làm nhà in”
“Tuyệt chưa” Dan lầm bầm “Ngoại trừ chi tiết là nó hoàn toàn không quan trọng. Giờ chúng ta có thể quay trở lại với mấy tọa độc chiếc hộp ma thuật hay chưa?”
Amy vẫn thấy có gì đó lấn cấn trong đầu, như nó đang bỏ qua một mối liên hệ nào đó, nhưng rồi con bé cũng lật nhanh hết chỗ giấy tờ còn lại. Cuối cùng, nó mở tiếp một tài liệu khổng lồ đang ngả sang màu vàng, mà hóa ra lại là bản đồ thành phố Paris ngày trước. Mắt nó mở căng ra.
“Đây rồi” Amy hãnh diện trỏ tay vào một chấm trên bản đồ “Một nhà thờ St-Pierre de Montmarte. Đây chính là nơi chúng ta cần phải đến”
“Sao em chắc chắn vậy?” Nellie hỏi nó
“Các con số tạo thành một mạng lưới, chị thấy không?” Amy trỏ vào mép bản đồ “Đây chính là một tấm bản đồ chuyên gia do hai nhà khoa học người Pháp, Compte de Buffton và Thomas Francois D’Alibard thực hiện. Em nhớ đã đọc về nó rồi. Họ chính là những người đầu tiên kiểm chứng lý thuyết về dây thu lôi của Flanklin. Sau khi họ chứng minh chúng chính xác, vua Louis XVI ra lệnh cho hai người lên kế hoạch trang bị lại toàn bộ các tòa nhà trọng yếu ở Paris. Nhà thờ đó được xây dựng vào thế kỷ 14 tọa độ 5-12. Flanklin hẳn đã biết về công trình này. Ông rất lấy làm tự hào khi biết người Pháp đã sử dụng ý tưởng của mình như thế nào. Chính là nó. Em cá với chị một hộp sô cô la Pháp nếu chúng ta tìm thấy được một lối khác vào hầm mộ ngay trong nhà thờ”
Dan vẫn còn nghi ngờ. bên ngoài, trời đã mưa nặng hạt. Sấm rền bên cửa sổ thư viện. “Nếu như bọn Kabra đã đến đó trước thì sao nhỉ?”
“Chúng ta phải đảm bảo điều đó không được xảy ra” Amy giục “Đi nào”
 


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui